“Lâm, Lê, Tấn, Vượng” là sự cách nói tôn vinh những nhân vật thuộc hàng“tứ trụ” của ngành sử học Việt Nam đương đại. Đó là các giáo sư hàng đầu, thuộc “thế hệ vàng” trong hệ thống giáo dục nước nhà sau năm 1954: Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng. Với sự đóng góp to lớn bằng các công trình nghiên cứu khoa học, họ đã là những nhà nghiên cứu thực thụ, góp phần thúc đẩy sự tiếp cận các vấn đề sử học nói chung.
Khi nghiên cứu về dòng họ của mình, GS. Phan Huy Lê cho biết, sinh thời Phan Huy Ích đã có câu thơ tự hào về dòng họ: “Văn phát dư lan cự cửu nguyên” (Dòng văn để lại đủ cả cửu nguyên). Nhắc lại chi tiết này, để thấy rằng, ở Phan Huy Lê ngoài nỗ lực học tập, lao động bền chí để thành danh, chính ông cũng đã góp phần quan trọng làm rạng rỡ dòng họ Phan ở thế kỷ XXI.
Từ năm tháng tuổi trẻ, vào học dự bị đại học ở Thanh Hóa, Phan Huy Lê đã lọt vào “mắt xanh” các nhà giáo đáng kính như Trần Văn Giàu, Đào Duy Anh… Họ đã nhìn thấy ở cậu sinh viên thuộc dòng dõi hậu duệ Phan Huy Ích, Phan Huy Chú… tố chất cần thiết để đào tạo thành nhà nghiên cứu.
Năm 1956, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội thành lập, gồm 4 khoa: Toán - Lý, Hoá - Sinh, Văn và Sử. Phan Huy Lê vừa tốt nghiệp cử nhân Sử - Địa, đã được nhận ngay vào bộ môn Lịch sử Việt Nam cổ trung đại, Khoa Lịch sử, dưới sự chỉ dẫn trực tiếp của GS. Đào Duy Anh.
Nhà giáo Nguyễn Quang Ngọc cho biết: “Hai năm sau, khi GS. Đào Duy Anh chuyển công tác về Viện Sử học, mới 24 tuổi đời, Phan Huy Lê đã vững vàng ở vị trí Chủ nhiệm bộ môn, đứng mũi chịu sào tổ chức và xây dựng một ngành học giữ vị trí then chốt trong hệ thống các môn học về khoa học xã hội Việt Nam”.
Sự nghiệp nghiên cứu của GS. Phan Huy Lê bắt đầu từ năm tháng này và theo ông đến cuối đời. Ông quan niệm: “Sử học là cuộc đối thoại không ngừng nghỉ giữa hiện tại và quá khứ”. Có thể nhìn thấy chủ đề xuyên suốt trong học thuật của ông thuộc về các vấn đề: Sử học và tiếp cận di sản Hán Nôm; những vấn đề tổng quan về lịch sử; tiến trình lịch sử và cấu kết kinh tế - xã hội; thiết chế chính trị - di sản và thừa kế; những trang sử chống ngoại xâm; nhân vật lịch sử; văn hóa và truyền thống dân tộc.
Có một nét độc đáo, cần lưu ý về GS. Phan Huy Lê là quá trình tìm về văn hóa dưới góc nhìn lịch sử. Trả lời phỏng vấn của tạp chí Tuyên giáo (số tháng 3/2017), ông khẳng định: “Tiềm lực to lớn nhất của nhân dân được tích lũy, kết tinh trong nền văn hóa. Cho nên mỗi khi mất nước, trong âm mưu đồng hóa của đối phương bao giờ cũng âm mưu xóa bỏ, tiêu diệt nền văn hóa của ta, đồng hóa với nền văn hóa của họ. Có lịch sử, có văn hóa là có lòng dân. Mất lịch sử, mất văn hóa, mất lòng dân là mất tất cả”.
Trong các năm, từ 1988 - 2016, trên cương vị Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, GS. Phan Huy Lê đã chủ trì nhiều cuộc hội thảo khoa học về các vấn đề sử học. Chẳng hạn, cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan ở Hoan Châu trước đây được giới sử học cho rằng chỉ diễn ra và thất bại trong năm 722; nay đã đủ chứng cứ để kết luận cuộc khởi nghĩa bùng nổ từ đầu năm 713 và tồn tại gần 10 năm. Rồi vấn đề đánh giá lại các nhân vật phức tạp như Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký… cũng tạo ra nhiều tranh luận sôi nổi.
Nhưng đình đám nhất vẫn là hội thảo Chúa nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX. Từ kết quả nghiên cứu khởi xướng tại Huế, sau đó mở rộng ra Hà Nội, TP.HCM và đặc biệt là hội thảo tổ chức tại Thanh Hóa vào ngày 18-19/10/2008, quy tụ hơn 500 nhà khoa học đánh giá, nhìn nhận lại triều Nguyễn. Kết luận tại hội thảo này, đến nay, vẫn là vấn đề thời sự, vẫn trong tranh luận của giới học thuật.
Theo GS. Phan Huy Lê, triều Nguyễn phải chịu “trách nhiệm nặng nề và là tội lỗi” về việc để mất nước vào tay giặc Pháp. Thế nhưng, không thể “phủ nhận sạch trơn” với những đóng góp tích cực; trong đó, “cần đặc biệt chú ý tới công việc quản lý và thực thi chủ quyền của nhà Nguyễn đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”, ông khẳng định.
Phản biện khoa học là một trong những yếu tố được GS. Phan Huy Lê chú trọng. Ông nói: “Tôi cho rằng một nền khoa học phát triển phải luôn có tranh luận, phản biện. Một nền khoa học không có sự tranh luận là một nền khoa học “chết lâm sàng”.
Trong cuộc đời, GS. Phan Huy Lê từng giữ nhiều trọng trách, nhưng theo chúng tôi, quan trọng nhất vẫn là lúc ông thực hiện chủ trương của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chính phủ về việc tập hợp giới sử học, nghiên cứu và biên soạn bộ Lịch sử Việt Nam, với yêu cầu là bộ sử quốc gia. Ông được tin cậy giao làm chủ nhiệm đề án của pho sử này.
Riêng về dòng văn học miền Nam, đóng góp gần đây nhất của ông là việc “đánh thức” Lục Vân Tiên cổ tích truyện - Histoire de Luc Van Tien sau hơn một thế kỷ “ngủ yên” trong thư viện của Viện Pháp (Institut de France, Paris).
|
Lục Vân Tiên cổ tích truyện đã trở lại với độc giả sau hơn 100 năm ngủ yên trong thư viện ở Pháp |
Ông kể: “Tôi nhớ mãi ngày được giám đốc thư viện - bà Pastoureau - giới thiệu những kho sách có giá trị về Viễn Đông, và chọn một số sách, bản đồ cổ có liên quan đến Việt Nam bày sẵn trên bàn cho tôi xem. Trong số những cuốn sách quý này, tôi hết sức ngạc nhiên có cuốn sách dày, ngoài bìa viết tay dòng tiếng Pháp “History de Luc Van Tien illusreée par Le Duc Trach… Nhận thức giá trị trên nhiều phương diện của bản thảo này, tôi đã phát biểu vắn tắt với đồng nghiệp Pháp về truyện Lục Vân Tiên, hy vọng các học giả Pháp sẽ sớm nghiên cứu và công bố bản thảo quý giá này”.
Lục Vân Tiên cổ tích truyện vừa được nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ công bố năm qua. Qua đó, bạn đọc thế hệ hôm nay càng thấy thêm giá trị Lục Vân Tiên trong di sản văn hóa nước nhà.
Với sự đóng góp to lớn về học thuật, GS Phan Huy Lê đã được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh, Huân chương độc lập hạng nhì, Huân chương Lao động hạng nhất (1998) hạng nhì (1994), hạng ba (1974), Giải thưởng Quốc tế Văn hoá châu Á Fukuoka, Nhật Bản (1996), Huân chương Cành cọ Hàn lâm của chính phủ Pháp (2002)…
Lê Minh Quốc