Cha đột nhiên về khi mùa cau đang rộ. Thương lái ồ ạt thu mua khắp nơi. Họ mua cả cau non, cau già và cau điếc, miễn có hàng. Mẹ cũng vào sâu trong bản mãi tối mịt mới về. Mẹ đi chở cau thuê, mỗi ngày mấy chuyến. Mồ hôi đầm đìa, chiếc áo cánh mặc ngoài trắng bạc, ngửi nghe mặn chát. Thấy cha nửa nằm nửa ngồi trước cửa, chiếc áo vắt hờ qua vai, lảm nhảm điều gì đấy, mẹ chẳng nói chẳng rằng, đi thẳng ra sau nhà, múc một ca nước tu ừng ực.
Ai cũng bảo mẹ tôi giỏi. Đàn bà xứ này hiếm người nào khỏe như mẹ. Đường núi, chở nặng mà mẹ đi băng băng, lại đi suốt. Mấy chủ lò hấp sơ chế cau ở thị trấn hài lòng về mẹ tôi lắm. Tôi bỏ học sớm, ở nhà giúp mẹ đi chở hàng. Tôi chở ít nhưng trèo cau thì nhiều. Ban đầu, nhìn cây cau chót vót, nghiêng ngả trước gió, tôi lè lưỡi sợ nhưng dần dà cũng quen. Cứ thế, chủ vườn nào thuận mua vừa bán với người buôn là tôi có mặt. Tôi trèo như sóc, tót cái đã lên ngọn, bứt nguyên buồng, thòng dây thả xuống đất. Người mua ở dưới đếm cau, cân, trả tiền. Mẹ thì khuân chất lên xe, chở thẳng ra lò hấp sơ chế. Nghề này vất vả lắm, lúc đầu không cẩn thận nên hai bên đùi tôi rướm máu, rát rạt nhưng đây lại là nghề có thu nhập, không bỏ được. Mẹ con tôi siêng làm, tằn tiện cũng đắp đổi qua được mùa đông lạnh lẽo, dài dằng dặc. Tôi đã theo nghề được gần năm năm.
|
Ảnh Khắc Hiếu |
***
Cha về lần này trông già hẳn, râu tóc bạc, lại gầy nhom. Tôi lén nhìn cha ái ngại. Mẹ bới cơm, đưa cho cha rất thờ ơ. Mẹ đã coi như cha không tồn tại trong đời mẹ lâu rồi, khi lần thứ hai cha vẫn không hối hận mà bỏ mặc mẹ con tôi trong một năm mất mùa cau.
Năm ấy, thời tiết thay đổi đột ngột, sương muối sớm làm cau đậu quả kém. Sáng nào cũng thấy cau non rụng kín đất. Lò hấp sơ chế cau lạnh tanh, vắng người mua bán. Dân trong bản gặp nhau ai cũng buồn. Gia đình tôi cũng lâm vào cảnh túng quẫn. Mẹ định xuống phố kiếm việc làm. Bà tôi ngăn, rằng vất vả lắm. Cha cứ ườn ra đó, hết uống rượu lại đi đâu đến tối mịt mới về. Khổ nhất là lúc ông say xỉn, la lối. Tôi sợ hãi chỉ biết đứng nép sau cánh cửa. Có lần, mẹ bực quá cự lại thì bị cha túm tóc giật mạnh khiến mẹ ngã đập đầu vào ngạch cửa, máu tuôn đầy. Bà và tôi khóc còn cha bỏ đi đến sáng hôm sau mới mò về trong bộ dạng của con ma đói.
Trong mảng ký ức chắp nối thời thơ dại của tôi là những trận đòn vô cớ cha trút lên người mẹ. Mẹ nhẫn nhục chịu đựng. Sự chịu đựng của mẹ là hiện thân của nỗi thiệt thòi, cam chịu mà đàn bà xứ này chấp nhận xưa nay. Tôi thắc mắc, mẹ chỉ ậm ừ. Bà lau nước mắt cho tôi và vạch tóc để tôi xem vết sẹo cứa dài trên trán bà. Đó là hậu quả của lần vì sơ suất để sổng con lợn mới mua về làm giống mà bà bị ông đánh ra vậy.
Rồi cha lại bỏ đi sau khi ném cái nhìn hằn học về phía mẹ. Tôi không hiểu sao cha lại như thế, chẳng khác nào con ngựa bất kham chưa tìm được đồng cỏ xanh ưng ý. Bà tôi như ngã khuỵu xuống đất, bật khóc. Mẹ thì không hề khóc. Mẹ chỉ tránh cái nhìn như lửa thiêu của cha bằng cách giằng mạnh sợi dây tời ở cái trục ròng rọc, tiếng gàu va vào thành giếng đá ong lanh canh.
***
Cha đi theo người đàn bà khác ở tận đỉnh Azin, nơi phát nguyên của dòng sông Rinh bạo liệt, dữ dằn. Nơi ấy có nhiều trầm hương, song mây và nhiều loại gỗ quý, thú rừng hiếm. Cha tôi muốn làm giàu nên tham vàng bỏ ngãi. Tôi nghe vậy nhưng không mấy quan tâm. Trong suy nghĩ của tôi, khi người ta không thích sống với nhau, họ sẽ tìm nơi khác, vui hơn, sướng hơn để sống. Mẹ có vẻ không hề hấn gì sau khi cha rời nhà. Mẹ vẫn chăm sào lúa rẫy, cuốc thêm nương bắp sau đồi. Mẹ quần quật suốt ngày suốt tháng, người như teo quắt lại.
Tôi chưa bao giờ thấy mẹ buồn. Mẹ không biết buồn hay mẹ giấu kỹ nỗi buồn thì tôi không rõ. Chỉ có những đêm trời oi, khó ngủ, mẹ hay trở mình, thở dài. Bà tôi cũng ít nói hẳn. Thấy tấm tôn trên nóc nhà mục, thủng, nước mưa long tong nhỏ xuống, bà chỉ chép miệng rồi lấy thau hứng nước. Mẹ liếc qua, bặm môi rồi vội đi mượn chiếc thang, thoăn thoắt leo lên dọi lại bằng cái mo cau rụng trước nhà. Mẹ làm nhiều việc thay cha như thế. Tôi cũng dần quên đi hình bóng cha trong ngôi nhà này.
Trăng giữa tháng không rực rỡ, lai láng mà vàng vọt, nấp sau đụn mây xa. Mùa này trăng thường vậy, người trong bản bảo là trăng côi. Tôi không ngủ được, ngồi thu lu góc giường, qua cửa sổ, nhìn mông lung. Những tàu cau mướt hơn khi ướt sương, đung đưa theo từng cơn gió nhẹ. Hương hoa cau đằm dịu, tỏa lan. Thế nào sáng ra, mặt đất cũng lấm tấm sắc trắng ngà. Bà tôi sẽ nhặt lên săm soi và dự đoán mùa này cau đậu quả nhiều hay ít. Dân gian thường nhắc nhau được mùa lúa, úa mùa cau nhưng xứ này nhiều năm mất trắng cả cau lẫn lúa. Cau thì điếc, lúa thì nghẹn đòng, đỏ quạch. Người dân phải rời quê. Cả bản chỉ còn người già hom hem, gầy yếu và con nít bụng ỏng đít teo, da vàng. Có nhà buồn quá, đốn cau, trồng cây khác. Chính năm thất bát ấy, người đàn ông lạ là cha tôi đã xuất hiện làm đảo lộn cuộc sống của bà và mẹ trong ngôi nhà nhỏ nằm đầu dốc. Năm ấy, mẹ đã gần 30 tuổi.
Người ta hay nói về duyên nợ nhưng bản thân người trong cuộc lại tin vào số mệnh nhiều hơn. Tôi luôn cảm nhận trong suy nghĩ của mẹ tôi là hệ quả của sự va chạm không chủ đích, nghĩa là tôi chào đời bởi một cuộc hôn phối không có tình yêu mà đầy sức mạnh của bản năng nên tôi không được yêu thương. Cứ nhìn cặp mắt trong veo lúc nào cũng ướt nước của tôi là đủ biết.
Bà tôi bảo một ông thầy bói đi ngang bản vào một buổi chiều hoàng hôn tứa máu phán vậy. Tôi là con gái nhưng lại mang tâm hồn, khí phách của một chàng trai. Tôi phải là chỗ dựa cho hai người đàn bà thiệt thòi trong ngôi nhà vắng bóng đàn ông này. Đó là sự thật. Tôi trèo cau khi mười tuổi, vác đá dọn nương và phạt cỏ, bạt đất khi mới tuổi 15. Bọn con trai thấy tôi làm việc đều nể phục. Họ chẳng dám lân la đến với tôi. Nhiều chuyện về tôi được thêu dệt, nhất là khi tôi được chọn làm thầy cúng nhỏ trong lễ hội ăn trâu chứ không phải một đứa con trai nào đó. Đây là điều trái luật nhưng già làng đã quyết và thầy cúng già đã gieo quẻ giò gà nhằm vào tôi. Tôi há hốc mồm ngạc nhiên. Bà và mẹ ôm chặt lấy nhau, khóc ròng, không một lời phân trần giữa đám người lao xao bàn tán.
Năm ấy, lễ hội diễn ra hơn mười ngày. Sự chuẩn bị khiến dân bản náo nức, vui vẻ, nhất là vụ cau vừa qua đắt đỏ. Tôi hòa vào không khí ấy, một mình vào rừng hái trái riêng khung đã chín về trang trí cây nêu. Lúc này cũng đang vào mùa rẫy mới. Khắp núi rừng, nương rẫy đều ngời lên sự tươi non của những vạt hoa màu, triền lúa hẹn mùa bội thu. Tôi lang thang ra bờ suối vắng.
Con suối Xà Ruông tuôn trào những dòng nước mát. Sự tĩnh lặng khiến lòng tôi thêm thư thái. Tôi đã hòa vào đấy vẫy vùng, mặc cho từng dòng nước vuốt ve, ôm ấp thân thể thiếu nữ tròn căng, nõn nà. Hôm ấy, tôi về nhà khi mặt trời sập núi. Bà và mẹ đứng ngóng đầu dốc, sương chiều ướt tóc. Đêm, tôi trằn trọc không yên bởi hôm sau tôi phải thực hiện nhiều nghi lễ quan trọng. Điều lo lắng nhất là tôi phải kế nghiệp thầy cúng già. Tôi không thể vì tôi là con gái. Lần đầu tiên tôi biết khóc thương cho thân mình.
***
Cha tôi đến và ở với gia đình tôi như định mệnh bẽ bàng trong duyên kiếp hẩm hiu của mẹ tôi. Một người buôn trâu bị cướp chặn đường lột sạch vốn, lại còn bị đánh đập suýt chết. Cha nằm ngoài ngõ, đầu tươm máu, chân thõng xuống rãnh nước lởm chởm đá cuội. Mẹ nghe tiếng thở phì phò chạy ra dìu vào nhà sưởi ấm, cho ăn. Đến gần tuần, cha mới bình phục, nhớ nhớ quên quên nhưng “nụ cười có vẻ hiền”, mẹ từng bảo với tôi vậy. Cha khỏe mạnh, tự lên rẫy ra đồng, mẹ bảo nên tìm về quê nhưng cha không chịu. Cha bảo trời định rồi, phải sống ở đây. Ngôi nhà nhỏ vách lợp bằng những tấm gỗ xoàng, tre nứa; mái lợp tranh lâu nay thui thủi hai người đàn bà lặng thầm đến cô độc, giờ có thêm người đàn ông thì cũng vui. Bà đồng ý, mẹ gật đầu.
Đó là câu chuyện mẹ kể tôi nghe còn dân bản lại truyền tai một câu chuyện khác. Mỗi lần nghe, tôi lại muốn hỏi mẹ nhưng rồi sợ mẹ buồn, tổn thương nên tôi đành ôm nỗi buồn theo năm tháng càng đầy lên cùng với mẹ. Người ta bảo cha tôi là kẻ trộm cau. Vì đói quá hay vì điều gì đó, chỉ biết dạo ấy cau được giá, lại trúng mùa, thương lái về bản thu mua nườm nượp. Người dân vui mừng chưa thỏa thì có người than vãn rằng nhà bị trộm hái cau, mất đến gần trăm buồng. Người ta kháo nhau là có một nhóm người lạ mặt hay lân la ở những vườn cau vắng chủ. Người dân bắt đầu lo lắng, tìm cách đối phó. Có người rào vườn, cắm chông, dán bùa, cài dao lam, đóng đinh trên thân cây… nhưng chẳng ăn thua. Cau vẫn bị trộm. Người dân đã phục kích và rượt đánh nhóm người trộm cau trong một đêm trăng côi. Chuyện ấy vẫn được nhắc lại mỗi lần đến vụ cau.
Tôi ra đời trong một đêm trăng côi. Bầu trời ám mây và gió mùa khô tạt vào bản nóng rát. Bà tôi phải ngồi quạt suốt đêm, cái lưng đau không đứng dậy được. Mẹ oằn oại trong cơn đau đẻ, mắt ầng ậc nước. Sinh lực ở đâu như dồn tụ vào người, giúp mẹ hoàn thành sứ mệnh. Mẹ đã nhắc lại giờ khắc đón đứa con gái bướng bỉnh như thế. Mẹ mang tôi khi cân nặng chưa đầy 40 ký, người quắt như xác mướp, lại thiếu ăn. Bà tôi phải qua mấy ngọn núi để tìm cây thuốc cho mẹ uống. Thuốc ấy của người đồng bào hái trong núi sâu. Nghĩ dại, nếu ảnh hưởng xấu đến cái thai cũng đành chứ biết làm sao. Rồi trời cũng thương, tôi ra đời khỏe mạnh, suốt những ngày tháng tuổi thơ không ốm đau quặt quẹo. Người ta bảo tôi được trời nuôi còn bà và mẹ hay nhìn tôi thở dài. Tôi không hiểu vì sao nhưng lớn lên tôi mới chợt nhận ra rằng cái trán dô ương bướng, cái dáng đi bạt chân sang hai bên giống hệt cha đã khiến bà và mẹ lo lắng. Nhiều lúc, tôi thấy mình giống cha thật.
Năm nay, cau lại mất mùa. Bà tôi đã già và hay đau ốm. Chiếc xe máy rệu rã nằm xó nhà. Mẹ vào ra ngóng núi, thở dài. Hoa màu trên rẫy, trên nương cũng vì thời tiết mà còm cõi, không xanh lá, ra hoa. Mùa đót lại đang đến gần. Mẹ bảo sẽ vào núi sâu, lên ngọn Hoăn Plây mới có thể kiếm được đót chứ ngồi nhà là đói lắt lay. Bà ở trong buồng húng hắng ho như phụ họa. Mẹ lại không cho tôi theo. Chiều muộn, tôi hay ngồi trước nhà đợi mẹ, nhìn từng đụn mây xám tro vờn qua thung lũng, nghe con mang lạc đàn tác gọi thê lương.
Hàng cau già trước ngõ im lìm bóng. Những tàu cau úa vàng rụng xuống đất, khô cong, nằm ngổn ngang. Mẹ gom lại, tước từng lá, bó thành chổi mang xuống chợ bán kiếm vài đồng mua thức ăn. Bà vịn vách ra ngồi hóng gió, ậm ừ trong miệng điều gì đó nghe không rõ. Tôi chột dạ nhìn bầy dơi loạn xạ trong bóng chiều chập choạng. Phía núi Azin, người ta phát nương, đốt rẫy, lửa phừng phực cháy. Chợt tôi nghĩ đến cha. Ông về mấy ngày rồi lại đi, vào sâu trong núi, phía đám lửa đang oằn oại trong cơn thiêu đốt kia. Mẹ nhìn tôi khi thấy tôi dõi mắt về hướng núi. Dáng mẹ khuất trong màn đêm nên tôi không thể phân định được cảm xúc của mẹ lúc bấy giờ nhưng tôi biết có lẽ lòng mẹ đang dậy sóng khi nghĩ về người đàn ông tạt qua đời mình.
Mùa cau đắng đang dần trôi qua. Tôi sẽ không để đời mình dật dờ trôi như hai người đàn bà tôi yêu thương nhất cuộc đời này.
Sơn Trần