Con Trân nói nó đâu thèm đợi. Nó cũng đâu biết đường mà chọn. Sông sâu thì có phù sa bồi lở. Đông tàn thì xuân tới. Hết chướng là bấc. Bấc đi thì tết ghé. Chứ cái đời ghe bẹo thì bến nào trong, khúc nào đục cũng cắm sào mà bóp kèn tò te. Người ta ngó cây bẹo ưng bụng thì í ới hỏi han. Chừng hổng ưng thì phủi tay cái rột.
Nhiều khi nhìn đám mây chiều vắt trên ngọn gáo hay tán bần mà lòng buồn rười rượi, nhất là bận gió tết thổi ràn rạt ngoài Búng Lớn. Neo cái ghe, ngửa mặt lên trời, con Trân nhìn từng cụm mây bồng bềnh, nhấp cái buồn như tía nhấp ly rượu thốt nốt rồi thở ra cái khà, vỗ đùi cái đét: “Ngọt dữ bây!”. Cái buồn của con Trân chai sần theo đời lang bạt kỳ hồ nổi trôi châu thổ, miết rồi như một thứ rượu càng ủ càng ngọt, mà càng ngọt thì thiệt ra là càng thắt thẻo tâm can.
Hồi tía quay về bến Từ Cô đón con Trân đi, ngoại khóc suốt. Năm hồi bảy hiệp vẫy tay, bóng ghe khuất sau rặng bần, ngoại mới lủi thủi vô chái bếp. Má đi bước nữa. Ông Đài Loan già khú theo mối tới nhà đưa cục tiền. Miệt đồng bưng độ đó rộ chuyện lấy chồng xứ lạ, nghe nói ai qua bển cũng có tiền gửi về để xây nhà, mua đất. Má nhìn con Trân, má ngó cái nhà, má nghe tiếng ngoại ho húng hắng rồi nhìn đám em lủ khủ, má gật đầu cái rụp.
Chiều sẫm trời, má ra bến sông gội đầu cho con Trân. Má nói gì đó, tiếng bì bõm rụng xuống dòng sông, lẫn trong tiếng nước rơi mé sàn rào rạo. Con Trân chỉ nghe thấp thoáng má biểu: “Dìa với tía nghen con. Má đi cho đặng cái lòng”. Con Trân dạ một tiếng. Chiều rót tiếng đám chim sẻ về tây sau một ngày miệt mài sải cánh. Chim có tổ, người có tông. Con Trân dìa với tía đặng má đi lấy chồng. Ờ, đúng quá chừng, không dưng má khóc làm chi để chiều nhòe mắt nó.
***
Mấy chiếc ghe quần tụ lại với nhau, đôi lúc đứa này chồm chân qua cái ghe kia. Ghe chòng chành theo sóng nước, người ta gọi nhau hỏi hàng, dọ giá. Dịch lan đâu đó ngoài chợ, mấy đám ghe bẹo theo mùa gió tết mà tụ về Búng Lớn. 23 tháng Chạp rồi, nay đưa ông Táo chầu trời. Ghe bông vạn thọ nhuộm vàng khúc sông. Ghe trái cây đầy ắp. Mấy cây bẹo xanh đỏ tím vàng đủ màu lúc lỉu oằn mình treo đủ thứ hàng buôn. Trên bến loa phát rỉ rả yêu cầu khẩu trang 5K nghiêm chỉnh. Dưới khúc sông xôn xao. Dù có che cái khẩu trang hết nửa khuôn mặt thì thiên hạ vẫn cứ nhận ra nhau. l
Ủa chị Ba nay hổng lấy dưa hả? Nay dưa tròn hết sẩy nhen. Ruột bao đỏ, chừng mùng Ba chẻ ra là hên cả năm. Trời thần thím Bảy nay phát tướng rồi nghen, năm sau phát tài cho coi. Lựa mớ quýt đường chưng tết thím ơi. Con Lành nay đi chợ trễ nè bây. Lấy mớ muối Bạc Liêu về cho má bây ủ mắm, muối Bạc Liêu là không bao giờ trở mắm đâu. Thơm từ chái bếp thơm ra đình làng. Thơm lúc nắng vàng đến tận 30. Thơm người áo hồng theo chồng sang sông. Thơm cho đàn ông nhớ đàn bà. Thơm người bôn ba tìm về cố quận…
Bận tía rao vậy, Hai Tuấn cười nắc nẻ. Cha già bán muối tài tình ghê ta. Rao mà vần điệu lớp lang hệt như người ta ca cổ. Hai Tuấn bước qua mũi ghe ngó tới ngó lui rồi phóng cả tầm mắt ra cuối ghe. Hổng thấy gì hết trơn. Hai Tuấn thở dài lại bước về ghe mình. Ghe muối Bạc Liêu cặp sát mí ghe bán heo đất nung lại chòng chành theo từng bước chân.
Trân theo tía hơn chục năm cũng chỉ quẩn quanh với lòng ghe, với chằng chịt sông rạch bưng biền. Mỗi năm chỉ có một lần xa ghe về thăm ngoại, rồi chiều hôm trời chưa kịp tắt nắng lại lót tót quay về ghe bẹo. Tía hỏi sao không ăn tết với ngoại, con Trân cười lặng lẽ. Ăn tết với ngoại rồi ai ăn tết với tía.
Con Trân vén khéo bếp núc. Cái ghe nhỏ bao năm cũng đầy đặn bữa tết. Cũng dưa kiệu cải mặn. Cũng bánh tét thịt kho. Mùng Một đi chùa với tía xong nó về ở miết trong ghe. Lâu lâu, đám bạn thương hồ rủ đi hội chợ lô tô coi mấy bà bóng hát cho vui, nó lắc đầu nguầy nguậy. Tía vô xóm chúc tết thì nó nằm nghe cải lương. Nó thích nhất tuồng Lục bình trôi sông. Nó nghe miết đến nỗi cuộn băng cát-sét nhão nhẹt.
***
Ngoại nói má về rồi, má đang cách ly tuốt bên Cần Thơ. Má có điện cho ngoại, nghe đâu ngay 28 tết má được cho về.
- Kỳ này má có dẫn thằng em bây về. Hay… ờ hay năm nay ở lại ăn tết với ngoại đi Trân - ngoại bất giác buông lời.
Con Trân tròn xoe cặp mắt ngó ngoại:
- Gió tết luồn từ lòng sông vào nghe ớn lạnh rồi ngoại. Bận tối trời ngoại phải khoác thêm cái áo cho ấm nhen. Năm nay ngoại ăn tết xôm tụ hen. Con nấu xong nồi chè trôi nước cho ngoại đưa ông Táo là con về với tía. Tết nhất bán buôn để ổng một mình coi hổng đặng. Tía cũng có tuổi rồi ngoại ơi. Mấy hôm trở trời ổng hô nhức lưng. Có bận cúi xuống khiêng bao muối ổng đứng lên hổng nổi.
Cứ vậy con Trân nói ba điều bốn chuyện trớt quớt với ngoại.
Vậy là mười năm rồi má đi biền biệt. Đôi lần con Trân điện thoại cho ngoại nghe nói má có nhắc, má hỏi: “Con Trân ra sao?”, ngoại gật gù: “Sống được”. Má khóc. Ngoại khóc. Ngoại kể mà con Trân tỉnh rụi. Ngày má lấy chồng, má dặn con Trân đừng khóc. Chờ má sắp xếp xong má bảo lãnh qua ở với má. Tại ông già Đài Loan này hổng biết má có con. Mình lấy người ta là vì tiền mà con. Nhà nghèo quá chừng. Má trót dại nên giờ coi như má ra đi đền ơn cho ngoại. Con ráng về với tía. Má không bỏ con đâu.
Thiệt tình má hổng có bỏ Trân. Năm nào má cũng gửi đầm, gửi nước hoa, gửi son về. Chắc xứ lạ trời xa má đâu biết thời gian trôi như mây bay gió thổi. Ngó lên trời thấy cụm mây xanh, chừng bán xong ghe hàng là mây đã bay mất. Có bận mây xanh chuyển thành mây xám. Trời trút cơn giông chông chênh cái ghe bẹo. Tía ngồi sau ghe bẻ lái. Gió phần phật thổi như muốn tung nóc ghe. Cây bẹo oằn mình cong gần chạm sàn gỗ.
Con Trân ngồi co rúm trong lòng ghe nhìn tía ướt lướt thướt. Tía bặm môi, cổ nổi gân vằn vện. Con Trân lớn lên theo mỗi mùa mưa nắng khắc nghiệt như vậy. Mấy bộ đầm, thỏi son, chai nước hoa của má thiệt tình đâu phải là thứ nó cần. Con gái xứ này quen mùi phù sa, da vàng châu thổ, trưng trổ mần chi ba cái thứ đắt tiền cho thiên hạ xì xào.
Thời gian ngộ lắm, nó chữa lành biết bao nỗi buồn của người ta. Một ngày buồn, một năm nhớ nhưng mười năm thì nó chai sần cái niềm riêng rồi. Chỉ tội cho tía. Mỗi bận cạn chai rượu thốt nốt, trong cơn say lảo đảo, tía hay nói đó là lỗi của tía. Đời ghe bẹo rày đây mai đó, gạo chợ nước sông, đèo bòng chi chuyện yêu đương nên làm khổ má. Phải chi bữa đó đừng mưa. Phải chi bữa đó má chịu về, má đừng lên ghe, má đừng vì mấy cú đấm của đám giật đồ ngoài chợ Giữa dành cho tía cái tội dám rượt theo đòi lại túi xách tụi nó giật của má thì đâu nên nỗi, thì đâu cám cảnh côi cút không cha mẹ của tía mà đem lòng thương.
“Lỗi của tía đó con. Mình đâu gốc gác xứ này, xuôi ghe bẹo từ Cái Cùng xuống đây ngỡ một chuyến hàng mà quá giang hết cả quãng đời” - tía cứ lẩm bẩm. Ngày má lum lúp cái bụng bầu, tía có lên bờ hỏi ngoại. Ngoại lấy chổi chà rượt đánh tưng bừng. Tía đứng chịu trận bầm tím cả người. Tía quỳ cả buổi trời mà ngoại cũng không ưng: “Lấy thằng ghe bẹo khác gì lấy đứa ăn mày. Nhà này nghèo chưa đủ hay sao?”. Tía xuôi ghe về cặp mé Búng Lớn mà câu nói của ngoại đựng đầy trên ghe. Ờ, đựng trĩu cả lòng tía tận bây giờ.
***
Tết chộn rộn khi Chạp đi vào những ngày cuối. Đám mây xanh trong thể như chiều lòng người lênh đênh sông nước. Cái hữu tình của miệt này cứ yên bình mỗi độ xuân về. Chợ nổi càng xôm tụ hơn khi ghe hàng san sát. Người đi chợ cũng nhộn nhạo suốt từ tinh mơ. Cái ghe heo đất vẫn cứ cặp mép cùng ghe muối của tía. Hai Tuấn hỏi: “28 tết rồi sao Trân hổng đi mần tóc, sắm đồ? Hay bữa nào xong buổi chợ sớm mình lên huyện, tui… tui sắm cho?” - Hai Tuấn cười cười gãi đầu.
Chiều bảng lảng về tây, ánh hoàng hôn vàng rực phủ lên sóng nước. Thằng con trai thương hồ da nhuộm nắng đen trùi trũi, gương mặt thô kệch, nụ cười bẽn lẽn ngây ngô. Heo đất thời này ít ai mua. Thằng con trai lại lấy thêm nồi, bếp rồi chậu về cho dễ buôn bán. Có lần con Trân hỏi: “Sao anh Tuấn hổng mua cái khác về bán cho nhanh hết hàng? Mấy cái đồ đất nung thiệt tình thiên hạ hết chuộng rồi. Giờ người ta xài toàn đồ nhôm, đồ inox không à”, nhưng Hai Tuấn cười hiền, nụ cười đúng điệu mướt mát: “Chèn ơi, tui bán đồ đất nung giữ chút gì đó xưa cũ cho xứ mình.
Hồi ông bà già tui lấy nhau đó hen, ông già tía ổng làm đồ đất nung mà. Ổng nung con heo đất, ổng khắc lên hai cái tên, rồi ổng để dành tiền. Đầy cứng con heo là ổng đi hỏi cưới má tui liền. Tui nghĩ chắc thời này cũng có người bỏ ống heo dành tiền đám cưới nên tui cứ làm”. Bận đó, con Trân thấy ánh mắt thằng bán heo đất nhìn mình thẹn thùng.
Chiều nhập nhoạng sang đêm. Khi nhá nhem phủ lên mấy cái ghe cặp Búng Lớn thì có tiếng gọi xa xa vẳng tới, giọng trầm đục quen quen. Hai đứa cố nhìn một đỗi thì à ờ, hình như là thằng Minh. Minh về sau mấy năm trường tha phương cầu thực. Cả ba tụ về cái mũi ghe heo đất mà rót ly rượu thốt nốt. Minh uống cái ực. Câu chuyện thị thành của đời làm thuê được kể ron rót, cả những ngày nhiễm bệnh khi dịch tràn qua. Những tháng ngày lay lắt khi thành phố đóng băng tất cả. Minh cười khì. Hồi đi trắng tay. Non nớt gót chân lừng khừng qua phà Vàm Cống. Ngày về lóng ngóng với mấy bộ đồ, xòe tay ra cũng trống trơn. Có chăng là thấy thương quê nhớ xứ. “Mình dân đồng bưng thì làm sao gột rửa phèn bám víu mấy chục năm rồi. Thôi về!” - thằng Minh nói gọn ơ, rồi cười tỉnh rụi. Hai Tuấn gật gù: “Đời ghe bẹo lang bạt, hổng giàu nhưng được cái thảnh thơi. Cứ vậy mà sống”.
Phù sa xứ này đời nào làm người ta giàu nhưng vẫn đủ để nuôi nấng biết bao thế hệ đó thôi. Sống một cách bình yên.
***
Mới sớm mơi của ngày 29, ai đó hớt hải bước chuyền từ cái ghe này sang cái ghe kia: “Ông bán muối Bạc Liêu đâu bây? Trên bờ có người kiếm. Thấy bà nào đó ăn mặc như bên nước ngoài về nói kiếm ông bán muối, kiếm con bé Trân”. Chợ nổi lao xao. Sóng nước dập dềnh.
"Bà ở bển về” ngó con Trân đang vân vê tà áo bà ba. Ông bán muối từ ghe bẹo ngó lên lòng thấp thỏm. “Thôi, tui ở lại ăn tết với tía. Chừng mùng Một tui đi chùa xong ghé nhà ngoại thăm má với em. Chợ nổi sông nước hổng có tiện để má xuống. Ờ thì tui nhận được hết đồ đạc má gửi nhưng mà tui hổng thể đi đâu. Sông nước xứ này nó quấn lấy đời tui rồi. Má thì vẫn là má, tía thì vẫn là tía nhưng má còn có được mái gia đình. Tía thì mỗi mình tui. Còn bao nhiêu cái tết nữa đâu để tui lênh đênh với tía” - con Trân nói rồi quay lại cái ghe bẹo. “Bà ở bển về” lừng khừng một chút rồi cũng quay đi, chỉ rớt lại câu nói từ rày mỗi năm bả sẽ về ăn tết quê hương. Nơi đó cũng chỉ là nơi bả ở. Chỉ xứ này mới là quê mình.
Ông bán muối nhìn con Trân lên ghe bẹo mà thở dài. Buồn hổng buồn, vui hổng vui, chỉ bâng quơ: “Nay mây xanh dữ thần”. Mây mùa tết nên quần tụ thành đám bự quá chừng. Hai Tuấn cười rổn rảng. Nay ông bán muối hổng rao vần điệu lớp lang mà chuyển sang nói mây nói gió. “Mây bay đây đó tám phương bốn hướng thì cũng theo mùa gió tết mà quy hồi cố quận ông ơi. Tỉ như thằng Minh, tỉ như “bà ở bển về”, đời mình đâu có ai muốn lỡ hẹn quê nhà mỗi độ tết đến xuân sang” - Hai Tuấn vu vơ. Hổng biết Hai Tuấn nói đúng hay tại ông bán muối vui mà ổng ngó đám bông vạn thọ theo ghe bẹo đang hối hả cặp vào khúc sông Búng Lớn mà cười khà. “Giao thừa cúng ghe xong mình nhậu bữa bây ơi” - ông bán muối gọi với qua ghe Hai Tuấn. Hai Tuấn lém lỉnh: “Dạ tía”.
Tiếng dạ rõ to làm thằng Minh đang ngồi trên ghe dưa hấu la oang oang: “Ủa trời, rồi tui thì sao? Nè he, tui cũng kêu bằng tía luôn. Tính sao thì tính chớ tui hổng chịu thua đâu nhen”. Phía cuối ghe muối, con Trân vẫn đang ngồi kho nồi thịt, chừng như chẳng thèm nghe thấy.
Tết vẫn tưng bừng trên chợ nổi. Ghe bẹo vẫn hối hả mua bán. Hồi còn ở với ngoại, ngoại hay nói mùa này là mùa mây xuôi về cố quận, nên xanh cả một trời thương.
Tống Phước Bảo