Truyện ngắn - Chung một mùa xuân

28/01/2025 - 06:57

PNO - Chiều 30 tết, thềm nhà chộn rộn, má bày biện đủ thứ để gói bánh tét. Tết năm nay phải là cái tết vui nhất để ông già xa xứ hưởng hương xuân quê nhà.

Nguyên tìm thấy ông giữa rừng người trong sân bay. Tháng Chạp gọi những cơn gió tết dặt dìu lên thành phố này. Nếu có nơi nào khiến người ta háo hức đón xuân nhất thì có lẽ là nơi đây. Chỉ cách một cánh cửa, bao người ngóng chờ đón đợi, bao háo hức sum vầy. Mỗi sự ngóng chờ đều mênh mang chuyện mình. Mỗi sự háo hức đều thao thiết chuyện đời. Chỉ ở sân bay, thời khắc này, Nguyên mới thấm thía những lời Nam nói.

Trong tin nhắn từ một nơi xa xôi cách nửa vòng trái đất, Nam hồi hộp theo chuyến về của ông. Chốc chốc Nam lại nhắn tin hỏi Nguyên đã gặp ông hay chưa, nhớ dẫn ông đi ăn phở nhé, tiệm phở tàu bay mà ông hay kể giờ còn ở góc đường ngã bảy, chạy lên là cái chợ cá ngày xưa không? Dồn dập những câu hỏi, những điều dặn dò. Ông xa quê lâu rồi, lần quay lại cố hương này là lần đầu. Gói trọn quãng hành trình tha phương bất đắc dĩ cũng ngót chừng năm chục năm.

Nam nói, ông còn khỏe và tinh anh lắm. Ông có thể nhớ rõ mồn một những câu chuyện mà có khi mấy ông già bên này đã quên. Nhưng, ông cũng vô chừng lắm! Đôi lần lẩn thẩn đi từ cái chợ người Việt về nhà mà cũng quên đường. Mấy đứa cháu dặn rẽ trái, ông cứ hướng phải mà đi. Thay vì lấy cái nhà hàng món Âu làm đích để thẳng tiến thì ông lại chọn cái nhà hàng có mảnh vườn trồng khế mà bước. Vậy nên, thoảng khi tụ tập cùng đám bạn già cà phê ở chợ dành cho người Việt ra về, ông hay lạc đến chiều hôm. Lắm khi 2 anh em Nam phải chia 2 ngả đường tìm ông, tới chừng bắt gặp ông đang ngồi nghỉ mệt ngay cây khế đang mùa ra quả trĩu cành. Ông chẳng có bệnh gì lớn hơn bệnh thèm quê.

Vậy nên, Nam dặn Nguyên kỹ, gửi hình ông mặc bộ đồ lên máy bay. Ông đã nhất quyết phải về. Về chuyến này.

***

Nhưng, ông chưa muốn ra khỏi sân bay vội. Cho ông một ly cà phê, cho ông một khoảng lặng ngồi nhìn thiên hạ đón nhau. Ông muốn thế. Nguyên đưa ông vào quán cà phê phía ngoài ga đến. Ông lặng im nhìn vào biển người đứng ngồi ngổn ngang, thỉnh thoảng lại chạy đến bảng điện tử xem thông tin các chuyến bay sắp đáp. Rồi lại có tiếng réo gọi tên nhau inh ỏi. Những cái ôm chầm siết chặt. Những nụ cười và cả giọt nước mắt. Ông vẫn lặng im nhìn. Ly cà phê Nguyên gọi cho ông chưa vơi giọt nào.

Ảnh Khắc Hiếu
Ảnh: Khắc Hiếu

Trong khoảng lắng đó, Nguyên có dịp nhìn kỹ ông. Tóc bạc trắng, đuôi mắt in hằn những vết thiên di, gương mặt tròn phúc hậu, tướng người chắc nịch. Ánh mắt ông xa xăm nhiều nỗi riêng. Nguyên không biết tại sao phải là lần này, càng không hiểu phải ngồi đây để làm gì, sau chuyến bay dài, chẳng lẽ ông không mệt, không muốn nhanh chóng về nghỉ ngơi? Ngay chính Nguyên cũng chẳng hiểu tại sao khi Nam kể về ông và gửi gắm Nguyên chăm sóc ông, thì Nguyên đồng ý ngay, chẳng suy nghĩ.

Có lẽ với Nguyên, câu chuyện người đàn ông khắc khoải cùng một nỗi niềm sâu kín về cố hương năm chục năm ròng khiến Nguyên tò mò. Cũng có chăng vì tình nghĩa với Nam - người đã giúp Nguyên tận tâm trong một việc quan trọng. Dẫu kỳ thực, Nguyên chưa một lần gặp Nam trực tiếp. Mọi kết nối đều thông qua mạng xã hội và các cuộc gọi từ 2 phương trời xa lắc.

Bây giờ đã là quá nửa đêm, sân bay vẫn dập dìu người, mặc ngoài kia gió tết đang thổi ràn rạt qua phố.

***

Nguyên tìm được Nam sau tin nhắn Nguyên để lại trong một nhóm những người trẻ yêu lịch sử. Những tưởng yêu cầu trợ giúp đó sẽ chẳng ai đoái hoài sau khi Nguyên đăng trọn vẹn câu chuyện cách đó 3 ngày. Một đêm muộn, tin nhắn từ người lạ cho biết có thể hỗ trợ Nguyên mà không cần sự hậu tạ nào. Bởi với anh chàng, tất thảy như bàn tay mình, lật lên hay úp xuống cũng đều là xương thịt, cũng đều được nuôi dưỡng chung một dòng máu.

Nghe giản đơn vậy, nên Nguyên cũng đắn đo, tuy nhiên, đây là cơ hội để Nguyên thực hiện nghiên cứu của mình. Nguyên cần những tư liệu lịch sử xác tín, hiện nó đã mất dấu. Một cuốn hồi ký của người cựu binh về giây phút cuối chạy thoát từ bến Bạch Đằng ra hạm đội ở Biển Đông, chỉ cần Nam photo lại và gửi về cho Nguyên.

Nguyên hồi hộp chờ đợi, 3 ngày, 7 ngày, và đến ngày thứ mười thì Nam điện thoại, nói có thể anh ta phải đi một chuyến dài đến thăm người vợ của ông cựu binh ấy, ở một bang khác, khá xa nhà Nam. Tuy vậy, Nam sẽ đi. Nguyên khấp khởi mừng. Thỉnh thoảng trong vài cuộc điện thoại trao đổi, Nguyên hỏi Nam vì sao lại bị cuốn vào hành trình này. Nhưng đổi lại chỉ là nụ cười bí ẩn: “Có những thứ đôi khi khó lòng giải thích, nhưng Nguyên à, bạn cứ tin, tôi sẽ đi đến tận cùng bởi tôi cũng cần tìm cho mình câu trả lời nào đó. Chúng ta những thế hệ sinh ra sau cuộc chiến, tất cả những gì chúng ta có thể làm là yêu chuộng sự an bình và thấu hiểu lịch sử”.

Đêm đó Nguyên trằn trọc mãi sau câu trả lời của Nam. Chúng ta trẻ và chúng ta nhìn thấy gì trên mảnh đất đã hồi sinh sau 50 năm? Phía này thành phố, những tòa nhà nguy nga vươn mình thành biểu tượng của một đại đô thị. Phía kia thành phố, đoàn tàu điện lăn mình hối hả. Nơi này vẫn luôn là mảnh đất lành cho bao ước mơ tìm đến. Nơi này, những con người tứ chiếng quá giang, ngỡ chỉ là khoảng ngắn cuộc đời mà thành định cư lúc nào chẳng hay. Nơi này, Nguyên đã sinh ra và lớn lên. Mỗi hơi thở của Nguyên cũng như nhịp thở của thành phố, ngày càng vươn xa và bay cao.

***
Sau cơn chợp mắt chưa đầy 3 tiếng đồng hồ, ông lục tục xuống nhà dưới. Khoảng sân nhỏ trước nhà Nguyên trồng vài khóm hoa cúc vàng, vài cây mai đã hé nụ và vạt vạn thọ đang he hé cánh. Ông gặp má Nguyên thong dong bên ly cà phê sữa và tờ báo tết rực rỡ sắc xuân. Ông lừng khừng và có vẻ bối rối. Nghe tiếng người, má Nguyên quay lại nở nụ cười tươi rói. “Ông anh dậy rồi à, đêm qua ông anh đáp trễ sao không ngủ thêm chút cho khỏe. Tui là má thằng Nguyên, nó có nói về ông anh. Hay ông anh ngồi xuống tui pha cà phê cho uống, ông anh ăn gì tui đi mua. Chạy ra đầu xóm là có cái tiệm bán bún bò mấy chục năm nức tiếng ở đây. À hay ăn hủ tíu, tui mua cho hủ tíu Mỹ Tho chánh gốc người xứ đó về đây bán cũng đã ba chục năm rồi đó. Nước lèo hầm bằng xương, đảm bảo ngọt thơm không phải bỏ bột ngọt đâu nghen”.

Ông ngỡ ngàng trước sự cởi mở của bà. Hình như, lâu lắm rồi ông mới gặp đúng bản tính của người đất này. Đúng y cái cách nói, cái vung tay, cái nụ cười và cả ánh mắt chân thành đối đãi. Dẫu ông kỳ thực, vẫn nghĩ mình không xứng đáng. Ông đã rời đi và trở lại. Nỗi âu lo đó khiến ông trăn trở suốt lúc ngồi trên máy bay. Nhưng, khắc giây gặp má của Nguyên, ông thở ra một nhịp thở nhẹ. Ông thấy mình đúng là đứng trên đất quê: “Tui thèm phở tàu bay. Tui… ờ… Năm chục năm rồi, tui thèm nhiều thứ lắm!”.

Bà đứng sững lại, bất giác thấy mắt ông đỏ hoe. Bà xua tay lia lịa: “Trời thần, thèm thì tui dẫn ông anh đi ăn. Mình về ăn tết mà. Phải vui chứ. Để tui thay đồ rồi đón xe dẫn đi”.

Bà tất tả chạy về phía cầu thang lên phòng. Ông ngồi xuống bên thềm nhà. Mảnh sân hứng nắng vàng hươm. Ông nhìn những cành mai khẳng khiu đợi đúng thời khắc thiêng liêng để nở hoa. Cũng giống như ông đợi chờ một điều cao cả trong đời. Ông chờ mòn mỏi. Chờ từ ngày ông bị mấy người bạn khiêng ông lên xe rồi chở thẳng ra Nhà Bè, lên con tàu nhỏ chạy hướng Vũng Tàu, cập chiến hạm ở ngoài khơi. Trong cơn đau đớn của vết thương nơi chân chưa lành, ông ngoái lại nhìn bờ bãi bắt đầu xa tít tắp. Đi đi rồi sau này đón vợ con sang. Đi đi, ở lại sẽ bị bắt. Đi đi tất cả đã chấm hết.

2 chữ gia đình khiến ông thon thót lòng. Gia đình của ông là ở phía nào? Ông lặng người khi nghĩ đến khoảnh khắc mình bị bắt lính sung vào cuộc chiến căng thẳng. Sài Gòn rực lửa khi ấy, đám trai trẻ ngơ ngác bị buộc cầm súng dẫu lòng vẫn biết cùng một đất mẹ. Bên này, bên kia. Cuộc chiến luôn có những số phận đứng ngay giới tuyến. Nhưng, ông tin chắc đất nước này không cần giới tuyến. Người Việt vẫn chung dòng máu đâu cần phân chia. Như mùa xuân đâu cần biết hoa sẽ nở, gió sẽ thổi, hay nắng sẽ nồng. Cứ tuần tự thời gian mà xuân về tết đến, dẫu biến thiên thời cuộc thì tháng tháng năm năm vẫn cứ vậy.

***

Má kể rằng ông ăn mà húp nước rồn rột. Xong ông lóng ngóng ngay cái lúc người ta tính tiền. “Ổng bảo ổng về chưa kịp đổi tiền. Má trả thay, lát dẫn ổng đi đổi tiền thì ổng gửi lại. Má cười tỉnh rụi, tui mời ông anh một bữa ăn cũng được. Bao nhiêu đâu mà ông anh ngại ngùng. Quý nhau là ở cái tình chứ bữa ăn thì có là gì. Ông ở đây cả tháng tui cũng lo nổi”.

Má kể cho Nguyên nghe khi ông đã lên phòng nghỉ ngơi sau cả buổi ruổi rong thành phố cùng má. Má hồ hởi: “Tội ổng lắm con. Ổng đi đâu cũng nhìn, cũng hỏi. Đến chợ Bến Thành, đứng trước cửa chợ lặng im, chừng má quay lại thấy ổng khóc. Khóc rõ mồn một 2 hàng nước mắt. Tay ổng run bần bật. Tự dưng má cũng rươm rướm nước mắt. Đâu phải ai muốn về cũng được. Người ta bỏ đất mà đi khi tuổi trẻ nuôi nhiều ước vọng nhưng chỉ khi về già, đó là lúc người ta mới biết đâu là đất ở, nơi nào mới là quê hương”.

Căn nhà nằm trong hẻm nhỏ của một vùng rìa thành phố có thêm một người ra vào. Mảnh vườn nhỏ vốn là niềm vui của má sau ngày ba mất nay cũng thêm người ngồi lặng lẽ ngắm. Đêm 23 tháng Chạp, má cúng tiễn ông táo, dành riêng cho ông bạn già từ bên kia bán cầu về ăn tết 2 viên chè trôi nước.

“Chè này tui tự tay làm nhen ông anh. Giờ tết hiện đại cái gì cũng có ở chợ hay trong siêu thị, nhưng người già tụi mình thì cứ phải cố mà giữ nếp xưa, bày biện đủ thứ trong nhà là để ăn tết đúng nghĩa. Chuẩn bị đồ, gói bánh, nấu chè, làm củ kiệu, phơi cải mặn, sên mứt dừa. Tất thảy tui tự ên mình làm hết đó”.
Chiều hiu hiu gió. Gió tết luôn là thứ gió khiến người ta lắng đọng nhất mà cũng nôn nao nhất. Ông đưa Nguyên tập hồi ký của ông cựu chiến binh. Đấy là thứ Nam gửi, sau lần Nam tìm đến nhà của bà vợ ông ấy.

Ông đã đi theo Nam, bởi chính ông cũng bị cuốn vào câu chuyện này. Mà không, thực ra ông cũng là một phần của cuộc chiến ngày đó. Sau khi ông chia sẻ câu chuyện của mình cho bà vợ ông cựu chiến binh, 2 người ôm nhau và khóc. Bà vợ quyết định sẽ photo đúng bản gốc để gửi cho Nguyên nghiên cứu. Với bà, lịch sử luôn phải là câu chuyện cần được nối tiếp cho thế hệ trẻ. Nam đã dành ra 2 tuần liên tục dịch thuật cho đúng nghĩa nhất. Ông may mắn là người đọc bản dịch đầu tiên. Cuốn hồi ký Những mùa xuân phía trước được ông trao lại Nguyên. Và cũng từ câu chuyện trong cuốn hồi ký, ông quyết định mình phải về.

19 tuổi, ông đánh trận ngay cái tết Mậu Thân. Trận ác liệt dậy sóng. Tiếng súng khiến cái tết đất này năm đó như vụn vỡ trong lòng đám lính trẻ. Giữa những khoảng lặng của đêm. Gió cào nát lòng họ. Đời ai lại không thèm ăn tết bên gia đình. Đó là bánh tét, bánh chưng, mứt gừng, mứt bí. Cái tết đầu tiên đời lính khiến ông thấy đoạn đường phía trước của mình mênh mông vô định. Sau trận đó, ông bị điều động về đồn trú ở Biên Hòa. Trận đánh thông cầu Rạch Chiếc của mùa xuân lịch sử, ông lại được tăng phái về chốt chặn đầu cầu, ngăn đường tiến công của quân giải phóng. Pháo bom rơi ì đùng suốt 3 ngày đêm.

Trong cuộc giao tranh đó, ông đôi lần phải kìm lại những loạt đạn nã về các chiến sĩ giải phóng. Thậm chí ngay đêm thứ tư, ông phải vờ như mình nhắm hụt, nã loạt đạn về phía rừng cây. Ông không biết tại sao mình làm vậy. Chỉ là ngay khắc giây đó ông thèm về nhà với má, thèm được bình yên bên vợ. Cuộc chiến với ông là vô nghĩa. Cũng ngay trong trận đôi công đó, một viên đạn vô tình đã ghim ngay phần đùi. Ông được tải về tuyến sau. Ngay trưa 30/4/1975, ông ngỡ sẽ được trả về với sự thanh bình mà mình ao ước bấy lâu, thì bất ngờ những người cùng tiểu đội khi tháo chạy khỏi Sài Gòn đã đưa ông theo, mặc ông chống đối dữ dội. Lúc đó ông phải làm sao? Ông còn má mình bạc tóc chờ đợi. Ông còn mái gia đình nhỏ vừa tạo dựng. Ông thèm ngày này lâu lắm rồi! Nhưng, ông vẫn chẳng thể tung đạp, cựa quậy nổi. Ngày đó vợ ông vừa cấn thai đứa con đầu lòng.

***

Má khóc. Ông khóc. Và Nguyên cũng khóc. 50 năm, những câu chuyện nhắc nhớ về mùa xuân nối liền một dải non sông hình chữ S luôn khiến con người ta thao thiết lòng. “Nhưng ông anh à, thời gian nó hay lắm, nó làm lành mọi nỗi đau, nó dạy con người ta phải sống tốt. Đó, ông anh thấy không, ngày ông anh đi đất này còn ngổn ngang nhiều nỗi, ngày ông về đất này chỉ một nỗi vui. Phố xá, nhà cửa, rồi ngay cả chính con người, phát triển hết trơn. Vậy nên, mấy cái xa xưa cũ càng nhắc lại cũng đâu có nghĩa gì. Mình tuổi này, cứ nhìn vào điều vui vẻ mà sống tiếp. Sống như mấy bông hoa hướng dương bên công viên bờ sông Sài Gòn luôn hướng mình đón nắng mỗi ngày” - má rì rầm với người khách. Gió xuân chạm vào mảnh vườn nhỏ, hong khô những giọt nước mắt, gọi cánh mai vàng bắt đầu bung sắc.

***

Chiều 30 tết, thềm nhà chộn rộn, má bày biện đủ thứ để gói bánh tét. Tết năm nay phải là cái tết vui nhất để ông già xa xứ hưởng hương xuân quê nhà. Má nói vậy nên tất bật chuẩn bị từ mấy ngày trước. Tiếng nói cười đang rộn rã thì thình lình cửa nhà có người gọi vọng vào. Ông già ngẩng đầu lên. Trời, 2 thằng cháu, một tên Việt, một tên Nam. Cái tên ông đặt để nhắc con cháu dòng máu đang chảy trong mình. Má của Nguyên cũng bất ngờ. Không ai biết đó là kế hoạch của Nguyên và Nam để cho ông già ăn một cái tết thật trọn vẹn.

Thành phố đã vào xuân. Gió tưng bừng thổi. Cánh mai rung rinh. Bông vạn thọ cũng tròn xoe mắt cười. Tết len vào mảnh sân vườn nhỏ, bên ánh lửa bập bùng…

Tống Phước Bảo

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI