Nhóm những nhà khoa học trẻ của Trường đại học Dược tập trung tại một khu nhà xưởng cơ khí cũ. Thực sự họ không thể nhận ra đây là vùng nào và cách nơi họ đã xuất phát tại khu sơ tán trường bao xa. Họ đã hành quân miết mải trong đêm, đi bộ vắt qua nhiều làng mạc, cánh đồng. Cứ đêm xuống mới đi. Do quy định bảo mật, họ tuyệt đối không được phép biết mình đang ở đâu, vừa đi qua nơi nào.
Bên chiến hào Vĩnh Linh - tranh của họa sĩ Đào Đức
Trụ lại khu xưởng cơ khí cũ được 3 tháng, họ đã khá quen thuộc với nơi này. Vừa tập luyện kỹ năng chiến đấu, họ vừa nghiên cứu khoa học và bào chế những loại dược phẩm thông dụng cho chiến trường. Ban ngày bận rộn nhưng đêm đến, có chút thời gian rảnh, anh em dược sĩ trẻ lại viết thư. Bên ngọn đèn dầu hạt lạc lờ mờ như đom đóm, đứa viết cho mẹ, đứa viết cho người yêu, đứa viết cho bạn, đứa viết cho em. Có đứa viết tới gần chục lá thư cho người yêu rồi mà không biết làm thế nào để gửi đi. Còn Tựu - chàng dược sĩ 25 tuổi quê ở Hà Nam - chỉ viết thư về cho mẹ. *** Cha Tựu mất sớm, khi anh mới 6 tuổi. Mẹ anh tần tảo nuôi 5 cậu con trai. Anh Cả lớn lên thì đi làm xa tận Thanh Hóa để kiếm chút tiền đỡ đần mẹ, anh Hai đi bộ đội, em kế Tựu tên Thành cũng đã đi bộ đội từ năm 1971. Ở ngôi nhà nghèo vách tranh mái rạ tại làng Duy Dương chỉ còn mẹ thui thủi cùng cậu con Út. Tựu thương và nhớ mẹ lắm.
Hồi anh ở nhà, bao việc nặng anh đều giành làm đỡ cho mẹ. Bây giờ đi vắng, Tựu không biết mẹ có đủ sức làm hay không. Thế nên bao nhiêu lo lắng, bao nhiêu tình cảm xót thương đó anh trút vào lá thư gửi mẹ. Chẳng biết chữ ở đâu tuôn ra nhiều thế, rồi nước mắt thương mẹ cũng tuôn xuống làm mờ nhòe những dòng chữ… Ở nhà, em có biết lo xới xáo mấy sào ruộng, vần công đắp đổi cho mẹ hay không? Tháng Tám, tháng Ba, mùa giáp hạt, thiếu gạo, em có xông xáo đi làm thuê làm mướn kiếm thêm mà đong gạo, đổi khoai, đổi sắn để đổ đầy nồi cơm của mẹ? Rồi tháng Bảy mùa bão, em có biết dọi lại mái rạ, nẹp tre chống gió tốc mái?…
Có lẽ do bố mất sớm nên Tựu dồn tất cả tình yêu thương vào mẹ. Tựu ám ảnh tiếng khóc nghẹn của mẹ khi vừa ôm em trai mới chưa đầy 3 tháng trong lòng, vừa lay gọi bố anh, lúc ấy đã co quắp cứng đơ trên tấm phản ghép gỗ tuềnh toàng. Hồi ấy, do còn nhỏ quá, Tựu không biết bố bị bệnh gì mà đột ngột qua đời. Thế nhưng, nhìn ánh mắt thẫn thờ, dòng nước mắt tuôn mãi không dừng của mẹ trong lúc ôm em bé khóc ngằn ngặt bên xác bố, Tựu không thể nguôi ngoai. Anh vật vã với câu hỏi: “Tại sao bố mình chết?”.
Chính bởi câu hỏi ám ảnh đó mà cậu bé Tựu 6 tuổi đã nuôi ý chí lớn lên phải làm nghề tìm thuốc cứu người. Hồi đó, mỗi khi có ai kể chuyện về cây thuốc chữa bệnh là anh lắng nghe, hỏi lại thật kỹ, rồi ghi chép cẩn thận vào một cuốn sổ dày mà anh tự đóng tự khâu bằng những trang vở thừa ghép lại. Tuy không dám nói ra nhưng trong thâm tâm, anh rất lo mẹ bị bệnh, rất lo mẹ sẽ đột ngột qua đời như bố.
Tựu nghĩ, mình phải ra sức bảo vệ mẹ bằng cách làm thật nhiều việc trong nhà để mẹ được nghỉ ngơi. Cậu bé 6 tuổi khi ấy đã nấu cơm, trông em, giặt tã lót cho em, quần áo cho mẹ, quét tước nhà cửa, quyết không để mẹ động chân động tay vào việc gì sau khi đi làm đồng về.
Nhà không có trâu, không mượn trâu được, cực chẳng đã, anh Cả và anh Hai thay nhau kéo cày thay trâu, mẹ cầm cày phía sau. Cả nhà vật lộn với đất. Quá vất vả khi vừa sinh con đã vội đi làm, ăn uống thiếu thốn, cộng thêm nỗi đau mất chồng, mẹ bị hậu sản và mất sữa. Tựu lo đến phát sốt. Cậu ôm em đi khắp làng xin bú nhờ, rồi hỏi thuốc chữa bệnh cho mẹ. Người ta mách cho cậu nhà ông lang Hanh ở cuối làng.
- Bác ơi, cứu mẹ cháu với! - Tựu mếu máo quẹt nước mắt nói với ông lang Hanh. - Hậu sản, kiệt lực, trúng phong, trúng hàn sâu vào xương tủy, khó lắm! - ông lang Hanh lắc đầu - Vừa sinh nở chưa ráo huyết đã ngâm nước ruộng thế này thì còn gì là hơi sức!
Mẹ nằm trên giường, héo như tàu chuối non gặp lửa, mắt trũng sâu lờ đờ. Tựu lo quặn ruột, cậu sợ mẹ sẽ chết như bố.
Ông lang cắt cho 5 thang thuốc. Anh Cả vay hàng xóm được con gà mái, về làm thịt nấu nồi cháo to. Mẹ ăn cháo rồi uống bát thuốc sắc đen như bồ hóng, đắng như mật cá mè. 3 đêm, Tựu không ngủ, thức trông mẹ, trông em. Em dường như hiểu được tình hình nguy hiểm, bớt quấy khóc. Tựu cũng đã tìm được nhà chị Xinh ở cuối ngõ vừa sinh con đầu lòng. Chị này nhiều sữa, tràn ướt áo, con nhỏ không bú kịp nên em bé út của Tựu được chị vui vẻ cho bú no nê, rồi được ở lại với chị cả ngày, đến tối Tựu mới đón em về.
Hết 5 thang thuốc, mẹ đã đi lại được nhúc nhắc trong nhà. Tựu mừng rơi nước mắt. Cậu chạy sang nhà ông lang Hanh thông báo: - Bác ơi, mẹ cháu sống rồi nhưng nhà cháu không có tiền trả bác bây giờ đâu. - Thôi được, bảo anh Cả cháu sang làm cho ta 5 công vụ gặt tới nhé - ông lang Hanh mỉm cười - Đợi đấy, ta bốc thêm 3 thang thuốc cho mẹ cháu.
Tựu nhìn ông lang Hanh thoăn thoắt chia các vị thuốc vào những mảnh lá chuối khô mà lòng kính phục. Trong mắt Tựu, ông ấy như một vị tiên giáng thế, hiện lên đúng lúc, cứu mẹ Tựu thoát chết. Lớn lên, nhất định Tựu phải làm nghề như ông. *** Thời điểm ấy cuối cùng đã đến. 11g đêm ngày 20/4/1972, đoàn cán bộ khoa học được lệnh thu dọn gấp hành trang lên đường ra chiến trận. Ba lô quân trang cùng dược liệu, các vật dụng thí nghiệm và bào chế chất lên vai, nặng cỡ gần nửa tạ, trì níu bước chân các nhà khoa học trẻ. Cũng may qua thời gian tập luyện, sức mang vác của các anh được nâng lên đáng kể. Cứ đi bộ chừng 1 tiếng rưỡi thì được nghỉ 10 phút.
Đoàn dược sĩ đi bộ ra ga tàu Thường Tín, lên tàu lúc 4g sáng. Lúc này, anh em đã định vị được mình đang ở đâu, bèn rỉ tai nhau không được ngủ gật trên tàu để canh chừng khi tàu đi qua quê nhà người nào thì căng mắt nhìn, thấy có bóng người gần đường tàu thì ném thư xuống, hét to để họ nhặt thư và chuyển về quê giúp mình.
Lúc bấy giờ, cũng chỉ có cách đó để gửi thư mà thôi. Trời tang tảng sáng, Tựu nhận ra tàu đang đi ngang qua quê mình. Anh cầm sẵn lá thư gửi mẹ trên tay - lá thư rất dày bởi những trang anh viết cho mẹ hằng đêm - chăm chú nhìn xuống đường tìm bóng người. Kia rồi, có bóng người đàn ông mặc bộ quần áo nâu sồng đang vác cuốc đi ngược hướng tàu chạy trông rất quen.
- Bác Xã ơi… - Tựu thốt kêu lên khi nhận ra người bác trong họ Trần nhà anh - Bác mang thư này về cho mẹ cháu với!
Tựu ném mạnh lá thư về phía người đàn ông. Anh chỉ kịp nhận ra bác Xã đứng khựng lại trước lá thư bay vèo trước mặt. Rồi đoàn tàu vụt qua. Tựu cố ngoái nhìn, hy vọng bác Xã sẽ nhặt được lá thư và mang về tận nhà cho mẹ anh.
Tàu đã đi xa, bóng ngôi làng thân quen mờ dần trong sương sớm. Tựu nhìn mãi những ruộng lúa xanh ẩn trong mưa phùn. Mắt Tựu nhòe đi lần nữa. Những dòng chữ anh viết cho mẹ lại vang lên trong tâm trí. Anh hình dung lúc nhận thư chắc mẹ sẽ khóc.
Chiến tranh thật tàn khốc. Biết bao giờ anh mới được nhìn thấy mẹ, chạm vào bàn tay chai sần của mẹ, hít mùi mồ hôi lam lũ quen thuộc từ vai áo bạc màu mỗi chiều hè? Với anh bây giờ, mẹ chỉ còn là một giấc mơ.
- Khóc đấy à Tựu? Đàn ông gì mà ỉu thế! - dược sĩ Thuận tì tay vào thành ghế tàu, nhìn Tựu chăm chăm. Trên tay Thuận vẫn còn lá thư trắng như cánh hạc.
- Sắp qua làng mày rồi đấy - Tựu nói, cố gạt đi cảm xúc mạnh đang dâng nước mắt lên mi - Chú ý ném thư xuống kẻo đi quá mất. Cô bạn gái mày chắc chờ đỏ mắt. Mày viết gì trong thư đấy?
- Viết là “Em ơi, lấy chồng đi, đừng đợi anh. Có khi anh không về…” - dược sĩ Thuận đáp tỉnh bơ nhưng giọng bỗng trầm đục hẳn.
Tựu thở dài. Anh se lòng nghĩ đến mẹ, đến cậu em đang chiến đấu ở Quảng Trị. Thành đi chiến trường hơn năm rồi mà chẳng có thư về… Sống mũi anh lại cay xè. *** Tháng 4/1974, Tựu đã ở chiến trường được 2 năm, di chuyển qua nhiều cứ điểm, dịch dần về phía Nam. Lúc này, anh đang ở Lộc Ninh, phụ trách Khoa Dược của Phòng Dược chiến khu Lộc Ninh. Xung quanh anh là dãy bàn khu bào chế ký ninh, cao sao vàng…
Kiểm tra xong, anh tạt qua nơi đặt nồi chưng nước cất. Bỗng có tiếng gọi: - Tựu ơi, ra đây, có thư ở quê này!
Tựu sững người. Tin thư quê nhà đến bất ngờ khiến anh ríu cả chân. Mà sao người anh nổi gai như bị trúng gió thế này! 2 năm nay anh mong mòn mỏi mà chẳng nhận được một dòng thư nào từ mẹ. Mẹ có viết thư cho anh không? Thư của mẹ có thất lạc trên đường vào chiến trận không? Bao nhiêu câu hỏi trở đi trở lại trong tâm trí, trong giấc mơ anh mỗi đêm. Bây giờ thì anh có thư nhà thật rồi. Bước chân anh luống cuống đi về phía tiếng gọi.
Bao thư nhàu nát hết mép và bung cả góc. Không biết nó đã qua tay bao người, chuyển qua bao đơn vị mới tới đây. Thư không dán tem, chỉ ghi tên em trai của Tựu ở góc trên và dòng họ tên anh: Trần Tựu - dược sĩ Quân Giải phóng miền Nam ghi ở giữa bì thư. Chỉ vỏn vẹn thế mà thư đến tay anh được đã là điều thần kỳ.
Tựu ngốn ngấu từng dòng chữ em viết loanh quanh kể về mẹ, về việc học ở quê nhưng rồi cuối cùng cũng đến những dòng chữ ngập ngừng đau đớn. Hình như em cố tìm chữ để làm giảm đi cơn sốc đang thít chặt tim Tựu. Em kế anh - Thành - đã hy sinh ở Quảng Trị. Lá thư mà anh mong mỏi từ quê hương hơn 700 ngày đêm lại là lá thư báo tin khiến anh như muốn ngã quỵ.
Thành ơi!
Tựu buông lá thư, lạnh người. Anh không thể khóc. Mọi đường mạch trong người anh co cứng lại trong đớn đau. Anh cũng đang ở chiến trường đây mà, sao anh lại không thể gặp em?
Người đồng đội đưa thư lặng lẽ đến, nhặt lá thư, đọc lướt, rồi ôm lấy anh.
Chắc mẹ không viết nổi lá thư thế này.
Chiến tranh còn tiếp tục. Tựu vẫn đang ở chiến trường. Anh Hai cũng đang ở chiến trường. Từ bữa đó, Tựu vừa mong, vừa không muốn nhận thêm lá thư nào nữa. Anh chỉ còn quyết tâm phải sống, phải lành lặn trở về với mẹ, thương yêu mẹ cho cả phần của Thành, đứa em vĩnh viễn không về được với mẹ. *** Tháng 4/1976, chiến tranh qua được 1 năm, Tựu mới về được đến nhà. Anh xót xa thấy mẹ già đi nhiều. Tóc mẹ bạc trắng và ánh mắt cũng bạc đi vì thương nhớ con. Tựu gặng hỏi thì cậu em cho anh biết, tối đến, mẹ hay khóc nên mắt yếu đi nhiều. Mẹ cứ ra góc hiên ngóng nhìn cây bạch đàn vỏ thân trắng xóa bên ao nhà mà Thành trồng từ hồi nhỏ, gọi: “Thành ơi, cây bạch đàn con trồng tốt tươi thế kia, chiến tranh hết rồi mà sao con không về?”.
Có lẽ sâu thẳm trong trái tim người mẹ, mẹ vẫn không thể tin rằng con trai mình đã hy sinh. Lòng mẹ vẫn khắc khoải. Con trai mẹ trong tim mẹ đẹp đẽ mạnh mẽ, con không thể mất đi vì bất cứ lý do gì.
Mọi người trong nhà bàn bạc với nhau đưa mẹ lên chơi nhà anh Cả ở Thái Nguyên một thời gian để mẹ khuây khỏa. Thuyết phục mãi mẹ mới đồng ý. Trước khi xách cái túi vải cũ đựng vài bộ quần áo ra khỏi cổng, mẹ còn đến trước cây bạch đàn vỏ thân trắng xóa như mái tóc mẹ, ngắm cây hồi lâu rồi thì thầm gọi tên Thành và khóc.
Sau khi mẹ rời đi, em trai được sự nhất trí của các anh, cho người đến chặt cây bạch đàn. Mấy anh em không muốn cây bạch đàn mà Thành đã trồng tiếp tục gợi lại ký ức khiến mẹ đau lòng…
Ở Thái Nguyên được mươi ngày, mẹ nằng nặc đòi về vì nóng ruột. Về đến sân nhà, mẹ sững lại khi góc ao trống trơn. Không còn bóng cây bạch đàn, mẹ gục xuống sân khóc lặng…
Tựu ôm chặt mẹ. Anh đau lòng và ân hận quá. Rồi anh chợt hiểu mẹ sẽ chẳng bao giờ đầu hàng.