Nàng đã buông tay và rời khỏi yên xe tự khi nào, tôi không biết. Tôi lập tức dừng lại, xô chiếc xe ngã chỏng gọng trên bãi cỏ và đi lục lọi trong từng bụi dã quỳ để tìm nàng. Tôi vạch hết đám lá này đến đám lá khác, vén từng nhánh hoa này đến cành hoa khác, chỉ thấy rêu trên đất ẩm nham nhở.
Phấn của những vòm hoa rậm khiến tôi bắt đầu cảm thấy khó thở, đau buốt trong xoang mũi. Ngực xộc lên một trận ho sặc sụa. Nước mắt tôi tuôn rơi ướt đẫm khuôn mặt, không phải vì khóc mà vì độ đậm đặc của phấn hoa.
Tôi cố gọi, gào tên nàng - vợ tôi - tha thiết nhưng nàng không đáp lại một lời nào.
Tôi suýt bật khóc, lần này là khóc thật.
Bầu trời có một đám mây xám bay về, núi đồi nổi một trận gió lớn.
|
Nguồn ảnh: Internet |
Khung cảnh phản địa đàng đó xảy ra trong giấc mơ của Du. Khi tỉnh dậy, Du cố nằm một lúc, nhắm mắt bất động để xem có mảy may nào nhớ lại được khuôn mặt cô vợ trong mơ không nhưng vô ích. Trong Du chỉ còn những cảm giác mơ hồ về nét mảnh mai của nàng, kiểu như các cô gái có vai gầy và cánh tay buông hờ, ngón tay thuôn dài, đường nét khuôn mặt toát lên vẻ thanh thoát khói sương. Cổ nàng quấn khăn len xanh ngọc quen thuộc như những cô gái trong tranh của các họa sĩ lãng mạn hồi đầu thập niên 1960 khi họ ghé qua và ký họa vùng cao nguyên này.
Giấc mơ Du và những bức tranh đó gặp nhau ở một điểm nữa: chúng được bao trùm bởi một hệ thảo mộc ước lệ, một không gian điểm xuyết bởi những nóc giáo đường cô liêu và dễ chừng tan biến trên những bờ thông xanh và hoa vàng.
Bấy nhiêu không đủ để tái hiện được chi tiết về nàng. Du cảm thấy nỗi hụt hẫng này còn lớn lao hơn chính nỗi hụt hẫng khi tâm trí anh lạc vào chặng cuối của giấc mơ, phải lùng sục từng bụi dã quỳ để tìm nàng mà chẳng thấy.
***
Bây giờ mới là chuyện thật.
Cô bé năm đó đã biến thành một bông dã quỳ. Du tin rằng như thế.
Khúc quanh giữa cư xá với nhà nguyện là điểm xảy ra vụ mất tích.
Camera công cộng ghi lại rõ ràng cô bé đi xa dần giữa 2 bờ dã quỳ nở rộ.
Đoạn clip trích xuất được từ trụ sở công an phường cho thấy cô bé tiến dần tới cuối tầm nhìn của máy quay (lúc này, cái bóng của nó chỉ còn một chấm trắng mờ nhạt và rung rinh trong buổi sáng Chúa nhật định mệnh). Nó mất hút. Chuỗi hình ảnh ghi được thoáng chốc nhòe đi như thể bộ nhớ máy móc cũng bị đám sương mù kia xóa mờ. Rồi ta lại thấy dải hoa vàng hiện lên, không còn bóng dáng cô bé. Chỉ còn vài dáng người lẻ loi đi về từ nhà nguyện: ông già chống gậy chậm chạp, bà già lưng cong vừa đi vừa lần tràng hạt, vài bé trai mang đồng phục áo trắng quần tây xanh của Thiếu nhi
Thánh thể và những cặp đôi nắm tay nhau đi từ xa lại gần rồi lần lượt biến mất khỏi khung hình.
Chẳng hiểu từ đâu mà người ta tin rằng cô bé bị ma giấu vào trong bụi dã quỳ nên vận động nhau ra sức phát quang cả một con dốc để tìm kiếm. Dĩ nhiên là chẳng thấy tăm hơi gì. Người thì cho rằng con bé 15 tuổi đã tìm được lối tắt luồn qua bờ cây rồi thoát ra một con đường khác, đi lạc mất hút hoặc bị bắt cóc. Điều này khó tin, vì trông trang phục nghiêm ngắn của nó, ai cũng biết nó đang trên đường đến nhà thờ chứ chẳng phải đứa ham vui. Thị trấn xứ đạo bình yên, làm gì có chuyện bắt cóc động trời xảy ra.
Cũng có người cho rằng cô bé đã bị một vong hồn cướp mất. Giả thiết này có màu sắc tâm linh thái quá, thật khó để thuyết phục. Làm gì có thứ ma cỏ giữa ban ngày trong một vùng đất chẳng lấy gì làm hẻo lánh tối tăm. Nhưng đây là một giả thiết khiến nhiều người thầm kín tin theo. Nó khuyến khích người ta nghiên cứu về những thế giới bí ẩn cùng tồn tại. Hơn thế, nó còn đem đến một niềm an ủi lớn lao rằng cô bé sẽ không mất đi, mà một ngày nào đó sẽ bất ngờ được trả lại cõi người.
Du còn nhớ, hôm đó cả khu phố đã lùng sục trong đám dã quỳ từ sáng đến tối, rồi tất cả buồn rầu bất lực, ai về nhà nấy. Người ta gọi tên nó âm vang trong lòng thị trấn nhưng vì đó là một cái tên không đẹp nên không cần phải đưa vào truyện này. Nó chẳng đáp lại. Các bụi dã quỳ im bặt, cứ nở hoa vàng. Một sự im lặng đã chuyển hóa thành màu vàng rực rỡ trêu ngươi. Có thể đó là lý do mà người ta phải phát quang, san bằng mọi bờ rào. Người ta không chấp nhận một cảnh sắc quá tương phản với tâm trạng.
Xác hoa bay tan tác. Xác lá và cành rủ xuống. Thứ hoa phô trương sức mạnh bản năng, nở như thể chẳng ai cản nổi, ấy vậy mà rời cành chỉ vài giây là rã rượi, đánh rơi sức sống thật thản nhiên.
Một sinh mệnh mang trong mình bản năng say đắm và mong manh như thế thì khó có thể che giấu điều gì nhỏ nhoi, nói chi đến việc làm biến mất một con người. Du nghĩ và trình bày suy nghĩ đó với linh mục chánh xứ lẫn công an khu vực, để việc tàn phá hoa dã quỳ không diễn ra nữa mà tập trung vào các khả năng khác siêu nhiên hơn.
- Siêu nhiên hơn ư? - cha xứ hỏi lại Du. Vậy theo anh, đâu là nguyên nhân con bé biến mất?
- Dạ… Con nghĩ là nó không mất đâu cả. Nó đang ở giữa chúng ta nhưng bằng một dạng thức nào đó mà chúng ta không nhận ra nó. Nó lẫn vào không khí hoặc đã biến thành một bông dã quỳ.
- Con nghĩ là ta tin được à? - cha xứ lại nói và cố gắng che đậy nụ cười bằng cách quay đi.
- Vậy thưa cha, cả Chúa cũng nói rằng phúc cho ai không thấy mà tin… - Du phản biện như một nhà thần học.
- Ôi, suy luận của loài người… - cha xứ bỏ dở câu nói.
Sự thật là cha xứ cũng không đưa ra đáp án nào. Vì vậy, Du có quyền nghĩ rằng con bé vẫn hiện diện, chỉ là chúng ta không thấy. Nó có thể vô hình vô ảnh nhưng cũng có thể là một trong số những bông dã quỳ giữa đồi hoa mà ta vô phương xác định.
***
Dẫu vậy thì một đám tang vẫn diễn ra. Đó là đám tang buồn nhất trong lịch sử thị trấn, bởi không có xác người chết. Một chiếc quan tài kết hoa và lá dã quỳ trôi lững lờ giữa ngày thu nắng đẹp. Vắng cả những tiếng khóc. Người ta đưa tiễn một kẻ vắng mặt bằng việc đóng hộp một khoảng trống, để từ nay sẽ không còn ai nhọc công tìm kiếm nguyên nhân của sự biến mất bí ẩn nữa. Đoạn phim ghi cảnh cô bé đi qua khúc quanh thật chậm rãi và điềm nhiên cho đến khi thành một cái chấm và mất hút đã bị xóa vĩnh viễn khỏi ổ cứng lưu trữ, xóa luôn cả trên ổ dữ liệu đám mây. Bờ rào hoa dã quỳ vàng rực như được vẽ bằng đôi nét cọ mướt khởi từ khúc quanh lưng đồi này xuống con dốc dài và nối liền nẻo vắng dẫn ra phía nguyện đường đã được dọn sạch không chừa một vết tích nào dù ai cũng biết chỉ sau một mùa, chúng sẽ tái lập sự hiện diện, phô trương sức mạnh bất diệt của tự nhiên.
Người ta muốn trốn chạy khỏi một sự việc bất khả lý giải. Mọi giả thiết lẫn truy vấn đều vô nghĩa rồi.
Mùa thu tới, dã quỳ sẽ lại rộ hoa. Không biết sẽ còn ai trong thị trấn này bị mất hút vào đó nữa hay không.
Du bỗng thấy ớn lạnh khi nghĩ về những khoảng trống lặng im, liệu chúng có còn được bảo toàn vào ngày-sau-hết của cuộc sống này? Ngay khi ấy, anh thấy như thể có ai đó hà hơi ấm vào thái dương mình. Du nghĩ đến con bé, nó đang ở đâu đây - trong một bông dã quỳ đã tàn, trong một nụ hoa đang nở hay trong những dòng nhựa đắng luân chuyển nơi cành nhánh để hóa thành muôn đóa hoa muộn cuối thu. Nó đang cùng dự lễ đưa tang chính nó hay nó đang đi lang thang nhìn vào từng mối âu lo, hoang mang và sợ hãi thấp thoáng trên khuôn mặt những người đưa tiễn. Rồi điều cuối cùng đã xảy đến, phát đi tín hiệu rằng giả thiết của Du ít nhiều tác động tới tâm trí vị linh mục: sau nghi thức đưa tiễn, cha xứ đã ngước mặt lên trời nói với hư không rằng phúc cho đất đai thị trấn vì đã sinh ra một đóa hoa đẹp. Chúng ta tin đóa hoa ấy mãi đẹp trong đất trời.
***
Lý lịch con bé có thể tóm tắt như vầy: 15 tuổi; nữ sinh của một trường trung học trong thị trấn; cha có tiền sử bệnh tâm thần và mẹ là một thi sĩ. Họ đã bỏ xứ đi biệt trong một ngày bình thường cách đây 12 năm. Con bé lớn lên trong trại trẻ mồ côi của nhà dòng. Vào tuổi dậy thì, nó có thói quen nói chuyện với những đám mây. Mọi sinh hoạt còn lại và biểu hiện tâm sinh lý của nó có thể nói là bình thường như mọi bé gái cùng tuổi.
Du chú ý chi tiết cô bé hay nói chuyện với những đám mây.
Vì ở đây, hơn ai hết, anh có thể có cơ may thấu hiểu được cô bé. Mấu chốt của sự biến mất cũng có thể ở đây. Đừng vội nghĩ rằng một đám mây nào đó đã đưa cô bé bay đi. Không đâu. Du vẫn trung thành với giả thiết của mình: nó đi lẫn vào trong một cõi khác như một cuộc chuyển kiếp nhẹ bẫng. Du đã có lúc cảm giác mình sắp tuột vào trong thế giới đó, mỗi khi anh một mình đạp xe đi dạo vào buổi chiều muộn ngang qua nguyện đường sau cơn mưa hay ngồi trên bãi cỏ nhìn những đám hoa vàng xôn xao theo từng đợt gió. Những buổi chiều chỉ có anh, cỏ cây và sương trời chùng thấp, nóc nhà thờ ẩn hiện, vạn vật phủ một màu ủ ê câm lặng. Con người đã biến mất khỏi mặt đất rồi hay họ đã bị thổi về một thế giới khác, anh nghĩ.
***
Bây giờ, ở tuổi trung niên, Du vẫn tin rằng mình đã từng nhìn thấy những buổi chiều không giống buổi chiều nào trong mắt bất cứ ai ở thị trấn này. Anh đi lại trên bãi cỏ, chính vị trí con bé biến thành một chấm trắng nhỏ nhoi và lay động trong đoạn phim cũ mà anh từng xem. Anh hít thở đầy lồng ngực làn hương tỏa ra từ những bông hoa rực vàng và nhẩm nói với đám mây trên đầu rằng nếu có cách nào thật nhanh chóng, hãy mang anh đi. Anh không chấp nhận được việc ngồi đây chờ tuổi già đến trong buồn tẻ với đủ thứ rầy rà của thân xác. Anh tin rằng chỉ cần mình lách người qua bên kia bức màn sương mù, là cái thế giới song song đó mở ra và con bé sẽ đứng sẵn chờ. Anh sẽ cùng nó hòa vào sắc vàng giữa bầu trời rộng lớn, bay như đôi chim xanh hướng về nóc nguyện đường.
Bây giờ, người cuối cùng cũng hiểu ra ngôn ngữ của Du và có thể ngồi nghe anh kể về giấc mơ mà không quay gót bỏ đi, lại là cha xứ…
***
Một ngày, ở trước sân nhà dưỡng lão, Du có thể trình thuật với vị linh mục giấc mơ của mình như một thi sĩ chuyện trò với bạn tâm giao. Vị linh mục im lặng hồi lâu. Trong khoảng thời gian ấy, có 2 đám sương mù vừa kịp bay qua não bộ của ông và ông nói: “Con bé ngày kia đã thoáng hiện, anh có thấy vậy hay không?”. Rồi họ đi đến bên cửa sổ nguyện đường, khoanh tay lặng nhìn xuống thung lũng, nơi có con dốc sâu với đôi bờ hoa vàng cuối mùa đang dần chìm vào màn sương đục.
Họ - Du và vị linh mục - đều nghe thấy rất rõ hơi ẩm của lá mục trong đất hòa với mùi phấn loài hoa hoang dã bay ngập tràn thinh không một buổi chiều tháng Mười tịch mịch.
Nguyễn Vĩnh Nguyên