Vang bóng mọi thời
Nhắc đến tác phẩm điện ảnh nổi bật của TPHCM không thể không kể đến cái tên đầu tiên: Cánh đồng hoang (năm 1979). Bộ phim kinh điển ra rạp vào ngày 30/4/1979 này đã giành giải Bông sen vàng năm 1980. Phim do nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết kịch bản, Hồng Sến đạo diễn, kể về gia đình Ba Đô - Sáu Xoa có nhiệm vụ giữ đường dây liên lạc cho bộ đội. Bối cảnh phim gần như chỉ diễn ra trên cánh đồng hoang, khắc họa cuộc sống khắc nghiệt, mong manh của người dân miền Tây dưới làn đạn của giặc. Những cảnh quay vợ chồng Ba Đô lẩn trốn dưới nước, nhét con vào bịch ni lông dìm xuống sông để tránh sự càn quét của máy bay địch khiến người xem thót tim. Thông qua câu chuyện nhà Ba Đô, phim lý giải một cách tinh tế và giản dị lý do vì sao một dân tộc nhỏ bé lại chiến thắng trước một cường quốc.
 |
Các phim Cánh đồng hoang, Ván bài lật ngửa, Biệt động Sài Gòn, Vị đắng tình yêu (từ trên xuống dưới, từ trái qua phải) chứa đựng giá trị nhân văn về tình yêu, cuộc sống, con người |
Nếu người hùng thời chiến trong phim Cánh đồng hoang là những nông dân chân lấm tay bùn thì trong những thước phim truyền hình Biệt động Sài Gòn (1985) là lực lượng đặc công quân giải phóng miền Nam (biệt động Sài Gòn) trong sự kiện Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Với 4 tập Điểm hẹn, Tĩnh lặng, Cơn giông, Trả lại tên cho em, đạo diễn Long Vân đã khắc họa những khó khăn, gian khổ và sự hy sinh của những chiến sĩ biệt động như Tư Chung, Ngọc Mai, Sáu Tâm, ni cô Huyền Trang. Phim dựa trên tư liệu về những trận đánh của các chiến sĩ biệt động Sài Gòn, nhân vật xây dựng từ nguyên mẫu có thật nên tính chân thực cao. Nhiều cảnh quay ám ảnh vì ê kíp “làm thiệt”, như cảnh quay địch tra tấn cô bé bán báo bằng cách dìm vào thùng đầy rắn độc, đoàn phim dùng rắn thật đã bẻ răng.
Cũng đưa nguyên mẫu người thật lên phim như Biệt động Sài Gòn là tác phẩm Ván bài lật ngửa (1982-1987). Nhân vật chính của phim Nguyễn Thành Luân được biên kịch Nguyễn Trương Thiên Lý (nhà văn Trần Bạch Đằng) xây dựng từ nguyên mẫu là tình báo viên Phạm Ngọc Thảo. Kịch bản dựa vào bản thảo tiểu thuyết Giữa biển giáo rừng gươm của chính ông. 8 tập phim Đứa con nuôi vị giám mục, Quân cờ di động, Phát súng trên cao nguyên, Cơn hồng thủy và bản tango số 3, Trời xanh qua kẽ lá, Lời cảnh cáo cuối cùng, Cao áp và nước lũ, Vòng hoa trước mộ gây ấn tượng khi tái hiện thành công không khí Sài Gòn và nhiều tỉnh miền Nam trong thời Mỹ - Diệm cùng cách kể chuyện của đạo diễn Lê Hoàng Hoa đầy chất điện ảnh.
“Huyền thoại” Mê Kông ký sự 21 năm đã trôi qua, nhưng đến nay, Mê Kông ký sự vẫn là bộ phim ghi nhiều kỷ lục nhất của thể loại phim tài liệu: dài nhất (90 tập), thời gian thực hiện lâu nhất (3 năm, 4 tháng), bán được nhiều đĩa nhất (30.000 đĩa) và cũng là bộ phim tài liệu đầu tiên bán được, thu lãi. Những thước phim tài liệu về thượng nguồn sông Mê Kông của ê kíp thực hiện gồm Nghệ sĩ nhân dân Phạm Khắc, biên kịch Trần Đức Tuấn, đạo diễn Dư Hoàng, quay phim Đức Long, Việt Phước, Ngọc Hùng được nhắc đến như một huyền thoại về sức làm việc bền bỉ, tinh thần dấn thân với nghề và có cả sự liều mạng để mang đến cho khán giả một cách khái quát về diện mạo của dòng sông Mê Kông từ thượng nguồn đến hạ lưu. Trong đó, ấn tượng nhất là những tập ghi hình trên lãnh thổ Trung Quốc - nơi thượng nguồn sông Mê Kông. Người xem lần đầu nhìn thấy những hình ảnh tuyệt đẹp của 3 con sông Tử khúc hà, Trác khúc hà và Ngang khúc hà tạo hợp thành dòng Mê Kông hùng vĩ. |
Nội dung tiếp theo
Phim có những cảnh hành động ngoạn mục như màn đấu súng trên lưng ngựa hay cuộc giải cứu bằng trực thăng. Xen kẽ là những màn đấu trí căng thẳng với phần thoại dày đặc nhưng luôn cuốn hút. Phim đã đưa diễn viên vô danh lúc đó là Nguyễn Chánh Tín (vai Nguyễn Thành Luân) thành ngôi sao và đoạn giới thiệu nhân vật này ở đầu phim trở thành cảnh quay “đóng đinh” trong trái tim khán giả.
Một tác phẩm khác chuyển thể từ tiểu thuyết là Xa và gần (1983) của đạo diễn Huy Thành, dựa theo cuốn Những khoảng cách còn lại của nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn. 2 tập phim kể về một gia đình bị ly tán và chia cắt vì chiến tranh. Dù sau đó cả nhà đoàn tụ, nhưng những xung đột về ý thức hệ, về cách sống của các thành viên đã tạo nên những mâu thuẫn không thể hòa giải. Vấn đề hậu chiến trong phim được phản ánh trực diện, thẳng thắn thông qua cuộc đối đầu căng thẳng giữa mẹ chồng - nàng dâu, chị dâu - em chồng, vợ - chồng, vì mỗi bên ở một “chiến tuyến”. Với đề tài hậu chiến mới mẻ, phim giành 5/8 hạng mục chính ở Liên hoan phim Việt Nam 1985, trong đó có giải Bông sen vàng.
Phụ nữ và tình yêu: Thời nào cũng đẹp
Trong dòng chảy 50 năm của điện ảnh TPHCM, giai đoạn những năm 1990 là một thời kỳ đáng nhớ. Một trong những tác phẩm được xem như mở màn cho giai đoạn đó là Vị đắng tình yêu (năm 1990, đạo diễn Lê Xuân Hoàng) - giải Bông sen vàng tại Liên hoan phim Việt Nam năm 1993. Chuyện phim xoay quanh mối tình ngang trái giữa anh chàng sinh viên trường y Lê Quang và nữ nghệ sĩ piano tên Phương có mảnh đạn trong đầu. Phim gây sốt vào thời điểm đó vì khắc họa sự ngọt ngào trong tình yêu của tuổi trẻ và sự hài hước của cuộc sống sinh viên. Nữ diễn viên tay ngang Lê Hồng Thủy Tiên (vai Phương) để lại ấn tượng mạnh với đôi mắt buồn sâu thẳm, phong thái thanh lịch của một mỹ nhân.
 |
Phim Mai đánh dấu cột mốc mới cho điện ảnh Việt khi là phim đầu tiên đạt hơn 500 tỷ đồng |
Ra đời cùng năm 1990 là Ngọc trong đá (đạo diễn Trần Cảnh Đôn) kể về cuộc sống gian khó của lực lượng thanh niên xung phong những ngày đầu giải phóng. Phim dựa theo tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Đông Thức. Thông qua 2 nhân vật nữ là Hương và Oanh, phim miêu tả quá trình trưởng thành và đổi đời của những con người trong xã hội cũ muốn vươn lên xây dựng cuộc sống mới. Qua Ngọc trong đá, điện ảnh cũng tìm thấy một viên ngọc trong đá quý giá: nữ diễn viên Việt Trinh. Nhân vật Oanh - một cô gái cá tính mạnh, không khuất phục - khi đó dù chỉ là tuyến phụ nhưng diễn xuất và nét đẹp không lẫn với ai của Việt Trinh đã đưa cô bước vào hàng ngũ ngôi sao hạng A.
Những chàng trai, cô gái thanh niên xung phong trong Ngọc trong đá làm ấm lòng người xem vì tinh thần tuổi trẻ, tự nguyện, còn những nhân vật trong phim Cầu thang tối để lại dư âm về tình người trong khốn khó. Bộ phim của đạo diễn Đào Bá Sơn kể về Tâm - một cô gái quê lên thành phố giúp việc, yêu một người đàn ông giấu mặt rồi bị hắn bỏ rơi khi mang thai. Số phận của Tâm nhiều nước mắt nhưng được xoa dịu bằng lòng tốt của bà con lối xóm, đặc biệt là chàng lái xe ba gác hiền lành. Phân cảnh anh bật khóc khi biết người mình thương có con với người khác nhưng vẫn quyết định gắn bó chăm sóc cô làm người xem rưng rưng xúc động.
Cũng lấy bối cảnh Sài Gòn, bộ phim Mai xoay quanh mối tình “đũa lệch” của Mai - một bà mẹ đơn thân và Trùng Dương - một cậu ấm. Phim chạm đến trái tim người xem bằng câu chuyện rất “đời”, trong cả tình huống lẫn lời thoại. Yếu tố bi - hài được cân bằng khéo léo, những góc máy trong phim đậm tính xi nê. Diễn xuất của cặp đôi chính Phương Anh Đào - Tuấn Trần cùng âm nhạc của Phan Mạnh Quỳnh cũng góp phần làm bùng nổ cảm xúc, giúp phim thu về hơn 540 tỉ đồng - con số cao nhất mọi thời của phim Việt.
Sài Gòn là mảnh đất của tình người và cũng là mảnh đất của tình yêu cải lương. Bộ phim Song lang (2018) ra đời nhân kỷ niệm 100 năm cải lương như đưa khán giả lạc bước vào rạp Hào Huê, Hưng Đạo, Thủ Đô, Kim Châu để sống lại không khí cải lương của những năm 1980. Phim nói về mối quan hệ rất lạ giữa 2 người đàn ông tưởng như đối lập: một anh kép hát (Linh Phụng) và một gã giang hồ đòi nợ (Dũng “thiên lôi”). Chuyện nghề và chuyện đời nghệ sĩ được đạo diễn Việt kiều Leon Lê kể đan xen vào nhau qua những khung hình trữ tình, đậm chất hoài niệm. Đến nay, dù điện ảnh Việt cũng có nhiều phim đề tài cải lương hay những bộ phim đề cập chuyện tình đồng tính nam, nhưng Song lang vẫn để lại ấn tượng mạnh trong lòng người xem bởi cách thể hiện vừa thơ vừa đẹp. Giải thưởng Bông sen vàng tại Liên hoan phim Việt Nam 2019 dành cho phim hoàn toàn xứng đáng.
Hương Nhu