Tìm lại đà tăng trưởng cho xuất khẩu thủy sản

02/12/2023 - 06:00

PNO - Những ngày này, nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long vào mùa thu hoạch thủy sản. Nhưng, giá tôm, cá sụt giảm, tiền bán được chỉ bù được chi phí đầu tư. Giá thủy sản thấp là do xuất khẩu thủy sản bết bát: trong 10 tháng đầu năm 2023 chỉ đạt 7,5 tỉ USD, giảm 20% so với cùng kỳ năm 2022.

Công nhân Tập đoàn Thủy sản Minh Phú (tỉnh Cà Mau) chế biến tôm xuất khẩu ẢNH: HUỲNH LỢI
Công nhân Tập đoàn Thủy sản Minh Phú (tỉnh Cà Mau) chế biến tôm xuất khẩu - Ảnh: Huỳnh Lợi

Giá tôm, cá đều thấp

Nuôi tôm hàng chục năm, chưa bao giờ ông Lê Văn Vũ (xã Vĩnh Bình Bắc, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang) gặp khó như năm nay. Ông cho biết, giá tôm càng xanh trước đây là 180.000 đồng/kg loại 10-15 con/kg, nay chỉ còn khoảng 100.000 đồng/kg. Với giá này, người nuôi chưa bị lỗ nhưng chẳng lời được bao nhiêu. Giá tôm thẻ hiện nay khoảng 122.000-130.000 đồng/kg loại 30 con/kg; giá tôm sú khoảng 140.000 đồng/kg loại 30 con/kg, dù có tăng so với các tháng trước nhưng vẫn thấp hơn năm ngoái.

Lãnh đạo Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Bạch Linh (tỉnh Bạc Liêu) cho hay, lạm phát trên thế giới khiến đồng euro mất giá, nhu cầu tiêu thụ giảm, chi phí đầu vào lại tăng. Thêm vào đó, tôm của Việt Nam phải cạnh tranh với tôm giá rẻ từ Ecuador. Do đó, việc xuất khẩu nửa đầu năm 2023 rất khó khăn. Vài tháng nay, tình hình có cải thiện chút ít và công ty đang đẩy mạnh xuất khẩu vào Trung Quốc, mở thêm thị trường Mỹ, Úc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Công ty cần được hỗ trợ vốn vay ưu đãi để nâng cấp máy móc, thiết bị, chế biến sản phẩm, từ đó tăng lượng thủy sản xuất khẩu vào cuối năm.

Ông Nguyễn Văn Tấn (thị trấn Vĩnh Thạnh Trung, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang) cho hay, các doanh nghiệp đang mua cá tra nguyên liệu với giá khoảng 26.000 đồng/kg, trong khi giá thành là 28.000 đồng/kg nên người nuôi bị lỗ. Sở dĩ chi phí nuôi cá ngày càng cao là do nguồn giống bị suy giảm chất lượng dẫn đến bị hao hụt nhiều, thời gian nuôi kéo dài, giá thức ăn lại cao. 

Theo Hiệp hội Cá tra Việt Nam (VINAPA), tính đến cuối tháng 10/2023, vùng đồng bằng sông Cửu Long nuôi trên 5.319ha cá tra, tăng 85% so với cùng kỳ năm 2022; thu hoạch 3.663ha, tăng 34%, sản lượng hơn 1,33 triệu tấn. Doanh thu từ xuất khẩu cá tra trong 10 tháng qua đạt 1,5 tỉ USD, giảm 28% so với cùng kỳ năm ngoái. 

Nông dân ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang thu hoạch cá tra. Hiện giá bán cá tra thấp khiến người nuôi bị lỗ
Nông dân ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang thu hoạch cá tra. Hiện giá bán cá tra thấp khiến người nuôi bị lỗ.

Gỡ khó trước mắt, tính chuyện đường dài

Ông Nguyễn Văn Đạo - Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Thủy sản Gò Đàng (tỉnh Tiền Giang) - nhận xét: “Từ khi xảy ra dịch COVID-19, ngành cá tra đã gặp khó, năm nay càng khó hơn bởi nhu cầu tiêu thụ trên thế giới giảm. Hiện nay, sức tiêu thụ của thế giới đã tốt lên nhưng giá xuất khẩu sang châu Âu, châu Á, Mỹ tăng chậm và còn ở mức thấp nên các doanh nghiệp chưa mạnh dạn giao hàng. Trước mắt, Gò Đàng nỗ lực đàm phán để nâng giá xuất khẩu, đồng thời khai thác thêm các thị trường mới. Nhu cầu tiêu thụ của thế giới tăng, mới kéo giá tăng theo và việc xuất khẩu mới có hiệu quả”. 

Ông Dương Nghĩa Quốc - Chủ tịch VINAPA - dự báo, kim ngạch xuất khẩu cá tra năm 2023 đạt khoảng 1,7 tỉ USD, giảm khoảng 28% so với năm trước, chủ yếu do những biến động của kinh tế thế giới. Dù vậy, ngành cá tra Việt Nam cũng nhanh chóng khắc phục hàng loạt hạn chế, như cải thiện nhanh chất lượng con giống; tăng cường kiểm soát về chất lượng các sản phẩm cá tra trước khi xuất khẩu; tăng sự liên kết giữa các doanh nghiệp xuất khẩu nhằm tránh cạnh tranh nhau thiếu lành mạnh; đẩy mạnh liên kết chuỗi giá trị từ người nuôi đến doanh nghiệp sản xuất thức ăn, xuất khẩu, ngân hàng… để thống nhất về sản lượng, thời vụ thu hoạch, sản phẩm chế biến và giá cả xuất khẩu. Có như vậy, ngành cá tra mới thoát khỏi tình cảnh bị động như hiện nay. 

Ông Trương Đình Hòe - Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam - thông tin, tính hết tháng 10/2023, kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 2,8 tỉ USD, giảm 24% so với cùng kỳ. Do đó, cần tận dụng lợi thế địa lý để đẩy mạnh xuất khẩu tôm vào thị trường Trung Quốc, nhất là tôm sú. Ở thị trường châu Âu cần tăng cường xuất khẩu tôm hữu cơ, tôm sạch và tận dụng triệt để lợi thế từ Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA).

Về lâu dài, phải giải được bài toán về chất lượng con giống suy giảm, chi phí đầu vào cao, chi phí logistics cao, tác động của biến đổi khí hậu, thời tiết, dịch bệnh… dẫn đến giá thành tôm của Việt Nam cao hơn thế giới, gây bất lợi về cạnh tranh.

Ông Phạm Văn Thiều - Chủ tịch UBND tỉnh Bạc Liêu - cho biết, tỉnh đang triển khai các đề án phát triển ngành tôm bền vững. Bạc Liêu sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng lộ trình chuỗi sản xuất tôm an toàn, hướng tới đạt chứng nhận của Tổ chức Thú y thế giới để từ đó xuất khẩu vào các thị trường khó tính. 

Nông dân huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh thu hoạch tôm. Năm nay, giá tôm giảm  nên người nuôi tôm không có lãi
Nông dân huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh thu hoạch tôm. Năm nay, giá tôm giảm nên người nuôi tôm không có lãi.

Cấp bách mở rộng thị trường xuất khẩu

Thủy sản là một trong những ngành quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Thủy sản Việt được đón nhận ở nhiều quốc gia trên thế giới. Đến nay, sản phẩm thủy sản Việt Nam đã xuất khẩu tới hơn 170 quốc gia và vùng lãnh thổ, giá trị xuất khẩu năm 2022 đạt tới 11 tỉ USD. 

Tuy vậy, thời gian gần đây, hoạt động sản xuất và xuất khẩu thủy sản gặp nhiều khó khăn, thách thức: sức mua giảm sút, các tiêu chuẩn, quy định về sản phẩm ngày càng khắt khe, sự cạnh tranh trong chuỗi cung ứng ngày càng gay gắt, khó lường. Trong bối cảnh đó, xúc tiến thương mại là một trong những giải pháp quan trọng, hiệu quả, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản xuất, mở rộng thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu.

Để giữ vững thị phần trước sự cạnh tranh gay gắt, chương trình cấp quốc gia về xúc tiến thương mại đã hỗ trợ các doanh nghiệp thủy sản duy trì sự hiện diện thường xuyên ở các hội chợ, triển lãm lớn, như triển lãm thủy sản toàn cầu tại Brussels (Bỉ), triển lãm thủy sản Bắc Mỹ (Mỹ), hội chợ thủy sản Trung Đông và châu Phi (UAE), hội chợ thủy sản và nghề cá Trung Quốc. Chương trình này đã góp phần giúp thủy sản Việt Nam giữ vững thị phần ở các thị trường truyền thống (châu Âu, Mỹ, Nhật Bản), cũng như mở rộng thị phần ra các thị trường mới (Trung Quốc, Hàn Quốc, ASEAN, Đông Âu, Trung Đông và châu Phi).

Trong thời gian tới, Cục Xúc tiến thương mại tiếp tục đồng hành cùng các địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp trong việc xây dựng thủy sản thành ngành kinh tế có quy mô và tỉ suất hàng hóa lớn, có thương hiệu uy tín, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, có khả năng cạnh tranh cao và bền vững, hội nhập quốc tế sâu rộng, phát triển có trách nhiệm theo hướng kinh tế tuần hoàn, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng và hiệu quả…

Cục sẽ phối hợp với các đơn vị nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nghiên cứu, phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm; cập nhật cơ sở dữ liệu về các thị trường mục tiêu trên thế giới, đặc biệt là các thị trường đã ký các hiệp định thương mại tự do (FTA). Mỗi thị trường có một đặc thù riêng nên cần nghiên cứu, cập nhật thường xuyên về thị hiếu tiêu dùng, chủng loại sản phẩm, dung lượng thị trường, mức độ cạnh tranh với các nước cùng sản xuất và xuất khẩu, để làm cơ sở xây dựng kế hoạch phát triển thị trường hợp lý.

Ông Vũ Bá Phú - Cục trưởng 
Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương)

Giảm giá thành để tăng sức cạnh tranh với thế giới

Để đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản, đầu tiên, phải nâng cao chất lượng nguyên liệu. Lâu nay, giá thành cao đã làm giảm lợi thế cạnh tranh của con tôm Việt Nam. Để giải quyết, cần tăng khả năng thu hồi vốn, tức là tăng tỉ lệ thành công từ ao nuôi. Muốn vậy, cần có con giống tốt và quy trình nuôi phù hợp, tối ưu hóa hệ số thức ăn, bởi thức ăn chiếm hơn 50% giá thành nuôi tôm. Ngoài ra, cần xem xét giá cả ở các cơ sở cung ứng đầu vào, đặc biệt là thức ăn và các chế phẩm nuôi tôm. Cải thiện giá thành nuôi sẽ góp phần cải thiện giá thành tôm chế biến, tăng sức cạnh tranh về giá bán ra thế giới. 

Bên cạnh đó, ngành tôm cần có giải pháp tăng các cơ sở nuôi đạt các chuẩn quốc tế như ASC, Global GAP; đẩy mạnh sự hợp tác giữa các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản, bởi nếu hoạt động riêng lẻ, sẽ khó cạnh tranh với thế giới. Ưu tiên thực hiện trước nhất là hợp tác giữa các doanh nghiệp với nông dân và hợp tác xã (HTX). Nguồn nguyên liệu có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản nên để chủ động nguyên liệu, doanh nghiệp phải hợp đồng bao tiêu sản phẩm với các trại nuôi thủy sản, hỗ trợ nông dân kỹ thuật nuôi, chọn giống, thức ăn, thuốc thú y, kiểm soát dịch bệnh và khâu bảo quản nguyên liệu sau khi thu hoạch…

Giải pháp căn cơ là cộng đồng doanh nghiệp thủy sản Việt Nam cần hợp sức xây dựng thương hiệu về chất lượng cho các sản phẩm có thế mạnh. Sản phẩm nào hội đủ mọi tiêu chuẩn chất lượng mới được gắn logo và hình ảnh thương hiệu hàng thủy sản Việt Nam chất lượng cao, sản phẩm nào không duy trì được chất lượng sẽ bị loại khỏi danh sách. Có như vậy, khi xuất khẩu ra thế giới, thủy sản Việt Nam mới đảm bảo chất lượng đồng đều. Đây cũng là động lực để các doanh nghiệp nỗ lực kiểm soát chất lượng trên các khâu, duy trì và đảm bảo hàng đạt chuẩn. 

Ông Trần Văn Minh - Giám đốc Công ty cổ phần 
Nha Trang Seafoods - F89 (tỉnh Bạc Liêu) 

Nhờ liên kết nên không bị lỗ 

Năm 2023, xuất khẩu cá tra chậm, giá cá tra nguyên liệu trong nước thấp khiến người nuôi bị lỗ. Nhờ chủ động liên kết với Công ty TNHH Cỏ May Lai Vung theo phương thức “doanh nghiệp cung ứng thức ăn đầu vào và hỗ trợ đầu ra”, các xã viên HTX Dịch vụ thủy sản Châu Thành yên tâm sản xuất. 

Cụ thể, HTX mời Công ty Cỏ May đến khảo sát đất đai, ao nuôi. Ao nuôi của xã viên HTX Châu Thành có cồn An Hòa bao bọc nên nguồn nước sạch, tốt cho việc nuôi cá tra xuất khẩu; ban lãnh đạo HTX và xã viên đều có kinh nghiệm trong nghề và mong muốn liên kết để phát triển bền vững. Qua thực tế đó, Công ty Cỏ May đã đồng ý hợp tác, cung cấp toàn bộ thức ăn chất lượng và cho kỹ sư theo dõi suốt quá trình nuôi, hỗ trợ đầu ra lúc thu hoạch, sau đó mới nhận lại tiền cung ứng thức ăn. 

Giá thức ăn được công ty tính cho HTX bằng với giá đại lý cấp 1, còn thêm chiết khấu 6% trên tổng số lượng mua hằng năm. Nhờ sự liên kết này, người nuôi không phải đi vay vốn để mua thức ăn và lo lắng về đầu ra mỗi kỳ thu hoạch, lại giảm được chi phí nuôi cá. Hiện nay, giá cá tra sụt giảm, nhiều hộ nuôi cá tra bên ngoài lỗ nặng nhưng các xã viên HTX vẫn huề vốn hoặc có lãi chút ít. 

Ông Nguyễn Thanh Bình - 
Chủ tịch Hội đồng quản trị HTX Dịch vụ thủy sản Châu Thành (tỉnh Đồng Tháp)

Nghiên cứu xây dựng chương trình tín dụng xanh

Việc triển khai tín dụng của BIDV trong lĩnh vực thủy sản khá tốt. Tính đến cuối tháng 8/2023, dư nợ trong ngành thủy sản ở đồng bằng sông Cửu Long là trên 34.645 tỉ đồng, chiếm 24,5% tổng dư nợ ở vùng này của BIDV. 
Tuy nhiên, cái khó là việc thu mua nông sản từ nông dân không có hóa đơn chứng từ, nên các ngân hàng khó thực hiện đúng quy định về giải ngân bằng tiền mặt và kiểm soát mục đích sử dụng vốn vay của doanh nghiệp. Ngoài ra, phần lớn tài sản cho vay là đất nuôi thủy sản có giá trị thấp, khả năng thanh toán không cao. Đối với tài sản đảm bảo là hàng tồn kho, những khoản phải thu khó quản lý và dễ dẫn đến sự trùng lắp tài sản đảm bảo được thế chấp ở nhiều ngân hàng. Đây là trở ngại trong việc cấp tín dụng cho doanh nghiệp. 

Để nâng cao khả năng hấp thụ vốn của các doanh nghiệp, BIDV kiến nghị Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước xem xét xây dựng chương trình tín dụng xanh cho ngành nông nghiệp. Các bộ, ngành chức năng hướng dẫn về định mức, suất đầu tư, định giá, xác định giá trị tài sản trên đất như ao nuôi thủy sản, mức đầu tư hạ tầng, nhà kính… Ngoài ra, các bộ, ngành và địa phương cần quy hoạch, công bố các vùng nuôi thủy sản tập trung; xây dựng chính sách hỗ trợ về con giống, ứng dụng công nghệ cao, cơ chế bao tiêu sản phẩm đầu ra… 

Ông Lê Ngọc Lâm - Tổng giám đốc Ngân hàng 
thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)

Huỳnh Trọng (ghi)

 Huỳnh Lợi

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI