Tôi may mắn được sinh ra ở cái thời mà nếp cũ nhà quê vẫn còn vương vất. Vì vậy cho dù có sống ở Sài Gòn hơn 10 năm, bao nhiêu thứ đã thay đổi nhưng những gì là của ngày ấu thơ, của trẻ con nhà quê, tôi may mắn biết được và kịp lưu giữ trong ký ức của mình, đặc biệt là ký ức làng quê mỗi độ xuân về, tết đến.
|
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet |
Tết xưa quê tôi, tầm tháng Chạp, đi ngang nhà nào cũng thấy những rổ pháo đỏ phơi giữa cái nắng hanh khô, se lạnh của mùa xuân. Thời đó, pháo chưa bị cấm sử dụng mỗi dịp tết đến nên nhà nào cũng phơi pháo để đêm giao thừa và sáng mùng Một tết tiếng nổ được giòn giã hơn. Dân quê tôi tin rằng mỗi tiếng pháo nổ đùng đùng, giòn giã, không có viên đạn pháo nào bị xì, bị thúi hoặc nổ nhỏ là dấu hiệu một năm mới làm ăn nhiều khởi sắc, may mắn và phát đạt.
Những năm đó, đêm giao thừa, anh em tôi hay ra đứng trước sân nhà nghe ngóng tiếng pháo nổ phát ra từ nhà hàng xóm rồi đoán già đoán non xem đó là pháo của nhà ai. Tầm 11 giờ đêm giao thừa là đã bắt đầu thấy tiếng pháo nổ râm rang, tiếng pháo nổ nhiều hơn lúc cận 12 giờ, rồi bắt đầu giảm xuống cho đến sáng mùng Một tết lại bắt đầu nghe tiếng pháo nổ trở lại.
Hồi đó, ít nhất mỗi nhà chuẩn bị 2 tràng pháo, một cho đêm giao thừa và một cho sáng mùng Một tết. Chúng tôi thường bịt tai, chờ tràng pháo nổ hết, lượm mót những viên pháo bị sót hoặc chưa nổ để đốt lại. Ba tôi hay nhắc chừng việc đốt pháo này có thể rất nguy hiểm.
Tết xưa quê tôi, hăm mốt, hăm hai âm lịch tháng Chạp đã thấy các bà, các mẹ ngồi chen chúc nhau ở lò-nổ-đùng của anh Hai Tuấn. Cả xóm chỉ có mình nhà anh có cái ống nổ đùng đó. Gạo nếp được chọn những hạt mẩy, loại ngon đem bỏ vào ống nổ đùng bỏ lên lò lửa. Anh Hai Tuấn cứ ngồi quay qua quay lại cái ống nổ đùng đều đều như thế khoảng 30 phút sau thì mở nắp, đập một cái đùng thiệt to là hàng vạn, hàng tỷ hạt nếp trắng muốt, thơm phức được nở bung ra.
Trong xóm, lũ nhỏ tụi tôi hay ngồi cạnh ống thổi lửa, quay quay cánh quạt cho lửa thổi vào bếp với mục đích ngồi chờ mỗi dịp nổ đùng như thế mót những hạt đùng còn vương vất lại đâu đó. Những hạt đùng như vầy bắt đầu chuyển sang công đoạn xay bột. Bột nếp trắng mịn, thơm phức được chuẩn bị để làm những chiếc bánh in xinh xắn với nhân mứt bí đao, đậu xanh, đậu đen hoặc mè. Đó cũng là món bánh mà tết đến quê tôi hầu như nhà nào cũng có vài ba chục cái.
Tết xưa quê tôi, người dân râm ran chuyện năm nay có “làm heo” ăn tết hay không. Cận đến 23 âm lịch, ngày đưa ông Táo về trời là bắt đầu nghe tiếng eng éc của những nhà có làm heo cúng tết. Tôi nhớ có năm nhà tôi cũng làm heo như vậy. Trời chưa sáng tôi đã nghe tiếng eng éc của của chú heo ngày nào tôi thấy má nuôi trong chuồng.
Vậy mà sáng nay mấy nhát dao của ông Bốn Phước (người chuyên thọc huyết heo xóm tôi hồi đó, nay ông đã chết) đã làm con heo kêu lên mấy tiếng rồi nằm bất động. Má tôi chia một phần hai cái đầu heo và thêm miếng thịt đùi xem là trả công ông Bốn, còn lại má cùng vài người nữa ngồi xẻ ra thành những miếng nhỏ.
Nhà nào làm heo tết cũng có thói quen chia vài miếng cho hàng xóm chung quanh gọi là “nhà tui năm nay làm heo nên mang cho bác một ít để cùng ăn tết lấy thảo”. Vậy đấy, việc làm heo được xem là việc trong đại của nhà nông mỗi dịp tết đến, nó cũng hàm ý với hàng xóm rằng “năm nay nhà tôi làm ăn cũng kha khá nên mới làm heo để ăn ba ngày tết”.
Tết xưa quê tôi, đi ngang nhà nào cũng thấy những nia kiệu hoặc những sàng đu đủ được các bà, các mẹ phơi phía trước nhà. Món kiệu, đu đủ làm dưa để ăn kèm bánh tét được xem như là món ăn truyền thống mà tết cổ truyền nhà nào cũng có. Rồi thì ngổn ngang những tủ giường, bàn ghế được lau chùi, đánh bóng thoảng mùi vẹc-ni được mang ra giữa sân phơi nắng.
Mấy ngày tết ở quê tôi người ta ít đóng cửa nên những ngày này đi khắp xóm đều thấy không khí dọn dẹp nhà cửa chuẩn bị trang hoàng để đón mừng năm mới. Các bà, các chị và trẻ con vác chiếu, mùng mền ra con sông cuối xóm để giặt giũ cuối năm. Nước sông trong xanh, mát rượi, lũ trẻ con chúng tôi hay leo lên mấy chiếc chiếu nổi lềnh bềnh để làm thuyền, chơi trò đánh nhau.
Các bà, các chị râm ran chuyện tết năm nay nhà mình có thêm ổ bánh thuẫn, người khác thì bảo nhà tôi năm nay nuôi được bầy vịt làm vốn cuối năm. Những câu chuyện nối tiếp cho đến lúc trời đứng bóng, ai về nhà nấy tiếp tục công việc dọn dẹp giặt giũ cuối năm.
Tết nay, pháo đã bị cấm từ lâu. Con sông quê giờ đây một khúc sông chảy ngang xóm tôi đã bị lấp, bị cắt khúc nhiều đoạn và nước trở nên ô nhiễm. Bột-đùng năm nào đã thay bằng loại bột mà dân quê tôi hay gọi là “bột Sài Gòn”. Việc “làm heo” bây giờ cũng là chuyện hiếm quê tôi, một phần cũng vì an toàn vệ sinh, không được giết mổ heo bừa bãi, một phần kinh tế khó khăn, ít nhà nào “làm heo” để ăn ba ngày tết. Món dưa kiệu mỗi nhà làm thủ công nay cũng đã ít dần, thay vào đó là những hũ kiệu được mua từ chợ, các bà, các chị khỏi mất công tốn thời gian mà chẳng tiết kiệm bao nhiêu.
Với tôi, bức tranh tết quê xưa giờ chỉ còn là dư âm, là ký ức với tiếng pháo nổ đùng đùng, tiếng trẻ con í ới gọi nhau khoe vừa được ba mẹ mua quần áo mới. Một mùa xuân nữa lại sắp về trên mọi nẻo đường đất Việt. Một cái tết Nguyên Đán thiêng liêng mà chắc chắn mọi người Việt đều mong ngóng và chào đón với vô vàn tâm trạng, nhất là với những người con xa quê.
Huyền Nga