Có lẽ, không gì tuyệt diệu, thiêng liêng và đong đầy cảm xúc trong đêm Giáng sinh hơn khoảnh khắc giai điệu của những bài thánh ca vang lên. Những thanh âm bay bổng lẩn khuất trong những mái vòm của nhà thờ, sưởi ấm khắp không gian, như một thứ sức mạnh nhiệm mầu vang vọng trong đêm Chúa giáng thế. Đó là một khoảnh khắc thiêng liêng, lòng người tràn đầy sự thành kính và biết ơn, thời gian như ngưng đọng…
|
Bài hát Silent night, bản thảo viết tay của Joseph Mohr, khoảng năm 1820 |
“… Silent night! Holy night!
All is calm, all is bright
‘Round yon Virgin Mother and Child,
Holy infant so tender and mild,
Sleep in Heavenly peace!”
“... Đêm yên tĩnh! Đêm linh thiêng!
Tất cả thật êm đềm, tất cả thật rạng rỡ
Quanh Đức mẹ đồng trinh và con của Người
Chúa hài đồng thật hiền dịu và tốt lành
Ngủ say trong sự yên bình tuyệt vời!”.
Hơn 200 năm kể từ ngày ra đời, Silent night là một trong những khúc thánh ca nổi tiếng nhất, là giai điệu in sâu trong tâm trí không chỉ những người theo Cơ đốc giáo, mà còn của tất cả mọi người trên thế giới mỗi dịp lễ thánh. Hơn cả một giai điệu trong đêm Giáng sinh, Silent night đã trở thành khúc ca của tình yêu, của hòa bình, một khúc hát chữa lành tâm hồn và làm cho con người gần lại với nhau hơn sau những đau thương hay chiến tranh bạo tàn.
Nhưng, trái với suy đoán của nhiều người, ca khúc bất hủ này được viết lên một cách bình dị tại một nhà thờ nhỏ thuộc làng Oberndorf, nằm giữa những rặng thông quanh năm tuyết phủ ở miền Tyrol nước Áo, trên một cây guitar cổ của nhà thờ…
Khúc thánh ca từ cây đàn guitar cổ
Silent night ra đời vào đầu thế kỷ XIX tại Áo (tên nguyên mẫu theo tiếng Đức là Stille nacht). Ca khúc là sự kết hợp rất tự nhiên giữa những vần thơ của một linh mục trẻ tên Joseph Mohr vào năm 1816 và được một nghệ sĩ chơi đàn trong nhà thờ là Franz Xaver Gruber phổ nhạc vào năm 1818.
Joseph Mohr sinh ra trong gia đình một thợ đan nghèo, cha cậu đã bỏ đi từ khi cậu còn rất nhỏ. Tuổi thơ Joseph trải qua trong khốn khó với bà ngoại. Cậu bé nghèo tuy không được học hành nhưng lại có tài năng về thơ ca. Những lúc rảnh rỗi, Joseph hay lang thang trên những con đường tại vùng quê Salzburg nước Áo, lẩm nhẩm những bài thơ, bài hát tự viết trong đầu.
Trong một lần tình cờ, Joseph ghé vào một nhà thờ trong làng và gặp Johann Hiernle, người chỉ huy dàn hợp xướng. Có thể nói đó là cuộc gặp định mệnh đã thay đổi cuộc đời cậu bé nghèo khổ Joseph. Nhận thấy tài năng thơ ca, âm nhạc của cậu bé, Hiernle đã mời cậu vào học tại một trường ngữ văn nổi tiếng tại Kremsmunster, nước Áo. Sau đó Joseph tốt nghiệp trường dòng, được phong linh mục khi vừa 23 tuổi. Trong thời gian làm việc tại nhà thờ, Joseph sáng tác rất nhiều bài thơ đầy cảm xúc và được nhiều người yêu thích.
Năm 1816, khi vừa 24 tuổi, trong một đêm tĩnh lặng tuyết phủ trắng xóa, Joseph đã có những xúc cảm rất đặc biệt. Vị linh mục trẻ khi đó đã viết một mạch bài thơ ngắn mang tên “Stille nacht! Heilige nacht!” (tiếng Anh có nghĩa là “Silent night! Holy night!”; tạm dịch “Đêm thinh không! Đêm linh thiêng!). Đây cũng là phiên bản đầu tiên, nguyên sơ nhất của ca khúc Silent night bất hủ sau này.
Sau đó, Joseph chuyển đến làm việc tại nhà thờ Thánh Nicholas. Trước ngày lễ Giáng sinh năm 1818, linh mục Mohr muốn có một bài thánh ca mới cho nhà thờ và giáo dân. Chợt nhớ bài thơ cũ đã làm hai năm trước, ông tìm đến người chơi dương cầm trong nhà thờ là Franz Xaver Gruber để phổ nhạc bài thơ đó.
|
Joseph Mohr (trái) và Franz Gruber (phải) |
Tuy nhiên trớ trêu thay, lúc đó cây phong cầm (harmonium) của nhà thờ lại bị hỏng. Lúc đầu, Gruber không đồng ý với đề nghị của Mohr vì lo sợ rằng giáo dân sẽ khó lòng chấp nhận được một bài thánh ca được viết trên nền nhạc guitar, vì quy định truyền thống của các thánh đường Công giáo vào thời trung cổ thì trong các buổi thánh lễ ở nhà thờ chỉ được sử dụng đàn phong cầm cho các ca đoàn khi hát thánh ca.
Nhưng vì không còn sự lựa chọn nào khác, Gruber đã đồng ý sử dụng cây guitar cổ trong nhà thờ để viết nhạc cho ca khúc của linh mục Mohr. Bài hát được hoàn thành chỉ trong vòng vài giờ, với giai điệu dìu dặt, du dương của nhịp 3/4 và những hợp âm vô cùng đơn giản, dễ chịu của những bài dân ca Áo. Cha Joseph Mohr tin rằng mình thực sự đã có một ca khúc hoàn hảo cho đêm Giáng sinh.
Silent night được trình bày lần đầu tiên trong đêm vọng lễ Giáng sinh năm 1818. Trong buổi trình diễn, Joseph đệm guitar và hát giọng nam cao, Franz hát giọng trầm và cứ sau mỗi đoạn, ca đoàn của nhà thờ sẽ hòa chung phần điệp khúc. Bài hát nhẹ nhàng chầm chậm lan tỏa trong tĩnh lặng của một thời khắc thiêng liêng khiến toàn bộ giáo dân đi từ ngạc nhiên đến xúc động. Ngay khi bài ca vừa chấm dứt, cả nhà thờ đứng dậy với tiếng vỗ tay kéo dài như vô tận.
Đó cũng là lần đầu tiên người ta được nghe một khúc thánh ca được trình diễn bởi một cây đàn guitar và điều này hầu như không còn lặp lại trong lịch sử của những ngày thánh lễ.
Ngay sau đó, các giáo dân truyền miệng nhau say sưa nói về bài hát tuyệt vời Stille nacht của đêm Giáng sinh. Tòa Giám mục hay biết và các giáo đường, các họ đạo sao chép rồi chẳng mấy chốc bài thánh ca Silent night đã lan ra khắp nước Áo. Tuy nhiên, vài năm sau đó, khi Joseph Mohr rời bỏ nhà thờ Thánh Nicholas, ca khúc đã bị lãng quên trong một thời gian khá dài.
|
Bức ảnh lịch sử về nhà thờ thánh Nicholas, được chụp trước năm 1899 |
Chỉ cho đến khi hai gia đình ban nhạc nổi tiếng Rainers và Strasser người Áo quyết định đưa ca khúc vào các lễ hội âm nhạc mừng Noel và các chuyến lưu diễn vòng quanh Bắc Âu, ca khúc này mới thực sự được hồi sinh. Đến năm 1834, họ biểu diễn cho Đức vua Frederick William đệ IV của nước Phổ. Quá ấn tượng, vua truyền lệnh ca đoàn của cung đình phải xướng bài hát này vào mỗi dịp Noel.
Lúc đó, Silent night thực sự vượt khỏi biên giới nước Áo, đến nước Đức và rồi tràn ngập khắp châu Âu, vang vọng khắp trên thế giới.
Bài hát Giáng sinh bất hủ cho toàn nhân loại…
Ca từ của Silent night được bắt rễ sâu sắc từ những gì được miêu tả trong Phúc âm của Luke và Matthew. Theo đó, Chúa Jesus được Đức mẹ đồng trinh Maria sinh ra ở Bethlehem xứ Judea trong một chiếc máng cỏ từ 2000 năm trước. Cũng giống như ca khúc Silent night được viết nên một cách vô cùng bình dị, Đức Chúa cũng ra đời từ một gia đình bình thường, để rồi từ những điều bình thường ấy đã trở thành phi thường với toàn thể nhân loại.
Dù thấm đẫm tinh thần Cơ đốc giáo nhưng hơn 200 năm qua, sức ảnh hưởng của Silent night đã vượt khỏi cộng đồng của những người con giáo dân đạo Cơ đốc, trở nên thân thuộc với cả những tôn giáo khác trên thế giới.
Năm 1859, một vị giám mục giáo phận Florida, Hoa Kỳ là John Freeman Young đã cho ra đời bản dịch tiếng Anh của ca khúc, với tên gọi chính thức là Silent night. Phiên bản này đã trở thành ca khúc Giáng sinh được hát nhiều nhất trong lịch sử. Ngoài ra, ca khúc còn được dịch ra hơn 140 ngôn ngữ trên khắp thế giới. Trong thế chiến thứ nhất, ca khúc còn được hát ở hai bên chiến tuyến trong đêm Noel để xoa dịu tinh thần của binh lính.
Đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, nhà thờ thánh Nicholas bị lũ lụt tàn phá, những người còn nhớ đến Joseph Mohr và Franz Gruber đã dựng lại để “tưởng nhớ ca khúc Silent night”. Hiện nay, nơi đây được biến thành nhà bảo tàng, quanh năm thu hút du khách từ khắp nơi trên thế giới đến tham quan. Năm 2011, Silent night đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể.
Dù chỉ với những dòng thơ mộc mạc với những nét giai điệu giản dị, Silent night vẫn mang trong mình hơi thở của sự bình yên, ấm áp, với những xúc cảm của đức tin và tình yêu, những điều là bản chất của Thiên chúa giáo. Đó cũng chính là tinh thần của âm nhạc toàn cầu, khiến cho ca khúc ngày càng lan tỏa rộng khắp và được vang lên suốt hai thế kỷ qua mỗi dịp Giáng sinh về.
Lan Anh