|
Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Hoài (phải) nghiên cứu trong phòng thí nghiệm |
Chọn hóa sinh vì tính ứng dụng cao
Chị Nguyễn Thị Thu Hoài cho biết mình đam mê sinh học từ khi còn nhỏ. Dù gia đình không có ai theo ngành này, nhưng nhà khoa học nữ sinh năm 1981 đã theo đuổi môn sinh học từ năm lớp Chín. Khi học THPT, Thu Hoài chọn lớp chuyên sinh của Trường THPT chuyên Nguyễn Trãi, tỉnh Hải Dương. Dưới sự hướng dẫn của thầy Đỗ Mạnh Hưng, năm lớp Mười một, Hoài đã đoạt giải Ba học sinh giỏi quốc gia lớp Mười hai. Năm sau đó, Hoài nhận giải Nhì và là 1 trong 4 học sinh tham dự Olympic sinh học quốc tế tại Upsala, Thụy Điển năm 1999. Ở kỳ thi này, Hoài nhận bằng khen của ban tổ chức.
Những thành tích và đam mê từ bậc phổ thông đã khiến nữ sinh Nguyễn Thị Thu Hoài được tuyển vào chương trình cử nhân khoa học tài năng của Trường đại học Khoa học tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội. Chị chọn chuyên ngành hóa sinh và luôn nhận được sự ủng hộ của gia đình.
“Được sự giảng dạy và hỗ trợ của những thầy cô tâm huyết, uyên bác và tuyệt vời, tôi đã xác định rõ ràng con đường của mình là khám phá khoa học và được trở thành người giống như thầy cô của mình. Tôi chọn học ngành hóa sinh vì chuyên ngành này có tính ứng dụng cao, hơn nữa, vì yêu thích môn miễn dịch học do thầy hướng dẫn của bộ môn hóa sinh giảng dạy” - nhà khoa học nữ kể.
Nhận bằng tiến sĩ tại Đức 5 năm sau khi tốt nghiệp đại học, Thu Hoài tự nhận con đường nghiên cứu khoa học của mình nhiều may mắn và thuận lợi. “Thời gian làm tiến sĩ tôi được đi khắp châu Âu, gặp những con người đáng mến, luôn có sự giúp đỡ của thầy cô, bạn bè. Nhưng vì quá thuận lợi, nên tôi cảm thấy đây là giai đoạn mình bắt đầu thiếu sự nỗ lực cần thiết” - chị chia sẻ.
Bằng tiến sĩ dành cho cô gái 27 tuổi mở ra nhiều cơ hội nghiên cứu, tuy nhiên Thu Hoài cho hay chị chưa từng nghĩ tới việc ở lại Đức hay bất kỳ quốc gia nào khác mà luôn muốn ở Việt Nam làm việc và cống hiến.
Tiến sĩ Thu Hoài quay trở lại Trường đại học Khoa học tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội sau đó đến Viện Sức khỏe quốc gia Đài Loan (Trung Quốc) học hỏi một thời gian ngắn, rồi tiếp tục đến Bỉ nghiên cứu chuyên sâu. Trả lời lý do chọn Khoa Công nghệ sinh học, Trường đại học Quốc tế (Đại học Quốc gia TPHCM) để công tác, chị cho hay vì ở đó có những đồng nghiệp giỏi giang, xuất sắc, lại cởi mở, trìu mến, môi trường làm việc tuyệt vời.
Hỗ trợ chẩn đoán kháng thuốc
Kháng kháng sinh hiện được xem là vấn đề y tế nghiêm trọng vì nó tạo ra tác động to lớn đến hiệu quả điều trị, tỉ lệ sống sót; đồng thời làm gia tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và tạo thêm gánh nặng xã hội. Đến năm 2050, kháng kháng sinh ước tính sẽ gây ra 10 triệu ca tử vong mỗi năm nếu không có sự can thiệp hiệu quả.
Một trong số các giải pháp giúp giảm tình trạng kháng kháng sinh, tăng hiệu quả điều trị là phát triển các phương pháp chẩn đoán nhanh, kịp thời và chính xác tình trạng kháng kháng sinh nhằm trợ giúp việc đưa ra phác đồ điều trị hiệu quả. Đồng thời có biện pháp cách ly giảm lây lan các chủng đa kháng, toàn kháng.
Hướng nghiên cứu của nhà khoa học Nguyễn Thị Thu Hoài là “Phát triển quy trình phát hiện gen kháng kháng sinh (ARG) của trực khuẩn mủ xanh Pseudomonas aeruginosa trực tiếp từ các mẫu lâm sàng bằng kỹ thuật PCR giọt kỹ thuật số”.
Trực khuẩn mủ xanh P. aeruginosa là loại vi khuẩn gây ra nhiều bệnh nhiễm trùng, cả cấp tính và mạn tính. Theo một số báo cáo, nó là nguyên nhân số 1 gây ra viêm phổi và suy hô hấp. Vi khuẩn này cũng là 1 trong 6 nhóm/loài trong danh sách ESKAPE của WHO có khả năng đe dọa nghiêm trọng sức khỏe cộng đồng do khả năng đa kháng thuốc của nó. Khả năng này đến từ nhiều gen khác nhau, trong đó một số gen có tính quyết định nổi trội tới khả năng kháng những loại thuốc quan trọng trong điều trị.
Nghiên cứu này áp dụng kỹ thuật PCR giọt kỹ thuật số là công nghệ khuếch đại acid nucleic mới được phát triển gần đây. Đây là công nghệ có độ nhạy, độ chính xác, độ lái tập cao, khả năng định lượng vi sinh ngay cả ở nồng độ rất thấp và khả năng hoạt động tốt với các mẫu bệnh phẩm.
Nhà khoa học Nguyễn Thị Thu Hoài cho biết PCR giọt kỹ thuật số là công nghệ mới, do đơn vị chưa có tiền mua máy móc nên sẽ sử dụng nguồn lực của đối tác để thực hiện. “Còn về quy trình và các phương thức chẩn đoán kháng thuốc thì tôi đã nghiên cứu khi còn công tác tại Viện Nghiên cứu thuốc Louvain, Trường đại học Công giáo Louvain, Vương quốc Bỉ từ năm 2010 và nghiên cứu tiếp nối về cơ chế kháng thuốc tại Viện Nghiên cứu dị ứng và bệnh truyền nhiễm quốc gia, Viện Sức khỏe quốc gia, Mỹ 2020” - chị nói thêm.
Nghiên cứu của chị hướng đến việc phát triển các xét nghiệm mới để phát hiện nhanh sự hiện diện của các gen kháng kháng sinh ngay trên mẫu lâm sàng, hỗ trợ tốt hơn cho các y, bác sĩ trong chẩn đoán kháng thuốc và gợi ý sử dụng thuốc, từ đó hỗ trợ quá trình điều trị, giảm sự phát triển và lây lan của tính kháng thuốc, đóng góp quan trọng cho việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Chia sẻ thêm về hướng nghiên cứu trong tương lai, nhà khoa học Thu Hoài tâm sự, trước sự phát triển chóng mặt của công nghệ, chị hy vọng ngoài việc ứng dụng công nghệ mới, có thể phối hợp với các đối tác để cải tiến thậm chí xây dựng được công nghệ mới. “Kế hoạch ngắn hạn là tiếp tục các nghiên cứu cơ bản, đồng thời tiến hành song song các nghiên cứu ứng dụng, vì ứng dụng được kết quả khoa học vào cuộc sống chính là đích tới của mọi nhà khoa học” - chị nói.
Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Hoài là tác giả và đồng tác giả của 3 chương sách và 72 bài báo với 25 bài báo ISI/Scopus trong lĩnh vực nghiên cứu hệ protein (proteomics) và kháng thuốc. Chị vừa được trao giải Nhà khoa học nữ xuất sắc 2023 của L’Oréal - UNESCO vì sự phát triển phụ nữ trong khoa học. |
Dung Nhi