|
Tiệm mì Tàu A Quý trên đường Huỳnh Văn Bánh (quận Phú Nhuận) có xuất xứ từ xe mì gõ những năm 1990 hoạt động tại khu vực quận 1, quận 3 - Ảnh: Phùng Huy |
Quận Phú Nhuận (TPHCM) có cộng đồng người Hoa khá đông. Họ từng sống quanh chợ Phú Nhuận từ thế kỷ XVIII hay XIX, trồng củ kiệu ở khu đất phía bên kia cầu Kiệu nên cầu này ban đầu gọi là cầu Xóm Kiệu. Họ lập ra đền Phú Hữu, mà người Việt quen gọi là đình Ông Cọp vì trên vách đền có đắp nổi bức phù điêu hình con cọp nhìn ra đường. Họ sống dọc theo đường Lò Đúc, sau này là đường Nguyễn Trọng Tuyển và mở tiệm thuốc bắc, tiệm chạp phô.
Người Hoa đi nhiều nơi, mang theo nào bột chiên, sâm bổ lượng, chí mà phủ… Đương nhiên không thể thiếu mì Tàu (chữ Tàu gọi theo thói quen, không có ý coi nhẹ) - món mì rất được ưa thích.
Hồi tôi còn nhỏ, cuối thập niên 1960, nếu túi rủng rỉnh tiền, thế nào cũng ra đường Nguyễn Minh Chiếu ăn mì tiệm Xẩm Ba. Tôi nhớ cái ghế xếp vuông bằng sắt lót gỗ, mùi mì trụng thơm nhẹ và miếng xá xíu viền đỏ. Tôi nhớ cái bánh tôm mỏng chiên mỡ, thích nhất khi nó chìm xuống nước lèo và trở nên mềm trong khi con tôm vẫn giòn.
Xe mì và tranh kiếng
Những xe mì của người Hoa mang đến ấn tượng sâu đậm với tôi dù sau này tôi được đi nhiều và thưởng thức món mì ở khắp nơi. Xe mì là một kiểu bán hàng ăn khá tiện lợi và linh hoạt. Một chiếc xe mì có thể được đặt trước một nhà hàng lớn để làm cảnh nhưng cũng có thể đậu phía trước một ngôi nhà cũ kỹ vách ván; dựa vào một bức tường loang lổ, ám khói để bán cho khách vãng lai.
Những xe đó, bản chất là quầy chế biến thức ăn, có thùng nước lèo hai ngăn, có bếp đốt bằng than củi, có chỗ để tô, hộc đựng mì, vịm mỡ heo để nêm. Thùng xe bằng tôn cũ kỹ, ghế xếp bằng sắt mặt gỗ đã chuyển màu đen xỉn. Tuy vậy, xe mì toát ra vẻ sang trọng trên đường phố cho dù được đặt ở một góc chợ bình dân và đông đúc.
Đó là nhờ có nhiều bức tranh vẽ trên mặt kiếng tráng thủy rất đẹp gắn xung quanh ba mặt xe, sát nóc. Những bức tranh này dùng nhiều màu đỏ, xanh lá cây, điểm ánh bạc lấp lánh, vẽ trên nền kiếng tráng thủy sáng bóng những người đang đánh nhau trong tích xưa. Họ bận áo võ tướng, đầu đội mũ mão, dùng thương dùng kích. Mỗi bức tranh có chữ Hán và chữ Việt chú giải bên cạnh.
Những xe mì trong trí nhớ của tôi luôn sáng lên cả khi đang trong góc tối, miễn có chút ánh đèn đường hay ánh sáng ban ngày hắt vào. Những bức tranh vẽ rất tỉ mỉ làm tăng giá trị chiếc xe. Hầu hết các xe mì có tranh kiếng đều được đặt ở vị trí cố định còn các xe bán mì gõ lưu động thường nhỏ hơn với hình thức đơn giản, không trang trí loại tranh này. Ở các tiệm mì Nam Tường, Quảng Huê Viên, Dìn Ký… và nhiều nơi khác trong Phú Nhuận có những xe mì tương tự.
Trong lúc ông chủ tiệm chế biến mì, khách ngắm tranh mê mải và nhận ra những tuồng tích từng xem trong truyện Tam Quốc, khi đi xem hát ở đình Phú Nhuận, đình Ông Hổ.
Khách ăn mì trong mùi thơm của các thứ nguyên liệu trộn lẫn vào nhau, mùi lá hẹ cân bằng vị béo của mỡ heo, vị ngọt dịu của nước lèo quyện với sợi mì dai và mùi thơm của miếng thịt xá xíu… Vừa ăn vừa ngắm tranh, nhận ra kia là bức Quan Công đánh Tào Tháo ở Huê Dung đạo, cảnh Triệu Tử Long phò A Đẩu, cảnh tam anh chiến Lữ Bố…
Kiểu xe gỗ gắn bánh xe để bán mì được người Hoa di dân đưa sang từ hơn trăm năm nay. Đi theo họ là nghề làm tranh kiếng, từ các di dân Quảng Đông đến lập nghiệp ở Chợ Lớn đầu thế kỷ XX. Ban đầu, họ mở các tiệm sản xuất và buôn bán các loại kiếng tráng thủy để soi mặt, lộng khung hình, gắn trên tủ và khung cửa. Sau đó, nghề này phát triển ra Lái Thiêu và An Giang.
Dòng tranh kiếng trước hết làm quà tặng và tranh thờ. Sau đó, người ta làm tranh theo các truyện tích xưa để đáp ứng nhu cầu trang trí của các xe mì.
Mì ở khắp nơi
Một người bạn từng sống ở Phú Nhuận cho biết, từ trường học Chánh Tâm ngày xưa nhìn xéo qua đường là tiệm mì Nam Tường của người Hoa. Tiệm này hai căn; sau 1975, một bên trở thành hợp tác xã. Bà con quanh đó gọi là tiệm mì thím Dìn. Còn tiệm mì Xẩm Ba cùng dãy với khu chuồng ngựa phía lề bên này. Xẩm Ba chỉ là tiệm mì nhỏ giống như trạm nghỉ chân, có bán chè và nước dừa.
Tiệm mì Quảng Huê Viên ngay đầu đường Nguyễn Minh Chiếu và Võ Di Nguy lâu đời, hồi xưa còn gọi là “mì hai căn”, có lẽ hồi trước rộng hơn, giờ khá nhỏ hẹp.
Khu chợ Ga tưởng chừng là khu vực quen thuộc với đa số người Bắc di cư, thật ra là khu đất của người miền Nam và người Hoa cư ngụ lâu đời. Ở đó có ba tiệm mì Tàu được nhiều người biết là tiệm chú Sừng, tiệm chú Cao và tiệm ông “bụng bự” đầu đường Hoàng Văn Thụ - Đỗ Tấn Phong bây giờ. Một anh năm nay trên 70 tuổi có kể một kỷ niệm: Sau 1975, anh đi học tập cải tạo và đến ngày trở về, anh chưa vội vào nhà ở gần đó mà phải vô ăn mì tiệm ông “bụng bự” trước, như tìm lại hương vị đời thường.
Hồi thập niên 1990, tôi thỉnh thoảng ăn mì Dìn Chón trên đường Võ Di Nguy (Phan Đình Phùng). Trước đây, khi nằm trên đường Phan Đình Phùng, bên trong tiệm, nội thất rất cũ kỹ. Sau này, tiệm dời lên đường Nguyễn Kiệm. Lâu ngày ăn lại, tôi thấy có cải cresson, ăn khá hợp do vị hơi đăng đắng, nhân nhẩn của sợi cải phối hợp hài hòa với vị thơm béo của nước lèo. Cách tiềm thuốc bắc cho món vịt tiềm của họ cũng khác với những quán khác.
Tôi cũng hay ăn mì trong hẻm cư xá Chu Mạnh Trinh hồi trước, có bánh tôm chiên mỏng. Khi tôi thắc mắc vì sao ít thấy các tiệm mì bán bánh tôm thì mấy anh chị bên trang Phú Nhuận ngày xưa chỉ ra ngay những tiệm có kèm thứ bánh này: Tiệm mì Tường Ký ở số 164 Đặng Văn Ngữ thuộc phường 14, chỉ bán sau 4 giờ chiều mỗi ngày.
Một ông anh cho biết có một tiệm mì trước 1975 trên đường Chi Lăng (Phan Đăng Lưu), cách trường Đạt Đức (nay là trường Châu Văn Liêm) mấy căn nay vẫn còn, cũng có bánh tôm chiên, tiếc là vị ngon không được như ngày trước, khi có ông già đứng bán.
Xe mì đầu cư xá Chu Mạnh Trinh nổi tiếng từ hồi đó nhưng buổi tối vùng ngã tư Phú Nhuận cũng có một xe mì gõ lưu động. Trời mưa đói bụng gọi ăn, ngon tới giờ vẫn còn nhớ. Một nơi còn bánh tôm chiên là tiệm mì A Quý gần đầu đường Huỳnh Văn Bánh đi Phan Đình Phùng quẹo vô hướng bên phải.
Còn rải rác những tiệm mì được cư dân Phú Nhuận nhớ ra, cái còn cái mất, có khi đang nhắc thì đã dẹp sau dịch COVID-19. Cổng xe lửa số 11, góc trụ đèn, buổi tối có một xe mì rất ngon, người ở đó thường gọi là “mì ông già”, đặc biệt nhất là món xí quách với nhiều tôm khô và râu mực.
Chỗ trụ đèn, buổi sáng, có một bà người Hoa bán cháo huyết với mì hủ tíu, chiều tối thì ông già người Hoa đẩy xe mì ra. Hai ông bà này có lẽ không liên quan gì nhau. Một anh nhắc hồi thập niên 1960, ở ngã ba Nguyễn Huỳnh Đức (Huỳnh Văn Bánh) - Hồ Biểu Chánh cũng có một tiệm mì.
Một anh bảo: “Nói về mì người Hoa, tôi vẫn thích ăn mì khô với hũ mù tạt vàng, thêm cái bánh tôm trên mặt. Giờ hầu như không còn thấy nữa”.
Thật ra, có thể ở đâu đó vẫn còn món mì khô như anh đang nhớ, giống như miếng bánh tôm chiên trong tô mì tưởng không còn nhưng vẫn có ở vài tiệm. Món mì ngày xưa, tô phở ngày xưa, cũng như chén cơm nguội ngày xưa chắc chắn luôn luôn ngon hơn bây giờ, khi chúng ta ăn bằng sự háo hức, thèm thuồng của thời tuổi nhỏ và nhớ lại bằng lòng hoài niệm của người đã có ít nhiều màu hoa râm trên tóc.
Phạm Công Luận