Những 'viên gạch nhỏ' của kỳ tích 60 ngày đêm bảo vệ Thủ đô

10/10/2014 - 15:07

PNO - PN - Để có ngày Hà Nội hoàn toàn giải phóng (10/10/1954), phần đóng góp của Trung đoàn Thủ đô là rất quan trọng: giam chân quân đội Pháp 60 ngày đêm, đảm bảo an toàn cho Trung ương Đảng và Bác Hồ lên Việt Bắc. Cùng “Quyết tử cho...

edf40wrjww2tblPage:Content

Nhung 'vien gach nho'  cua ky tich 60 ngay dem  bao ve Thu do

Bà Vũ Thị Nhâm nhiều lần bật khóc khi nhớ lại 60 ngày đêm cùng các Vệ út tử thủ giữ Hà Nội

NỮ VỆ ÚT DUY NHẤT

Đầu tháng 12/1946, Trung ương Quân ủy có lệnh cho di chuyển các cơ quan đầu não, kho tàng, xí nghiệp, các cơ sở sản xuất vũ khí ra ngoại thành, về nông thôn, lên rừng núi, đề phòng chiến sự lan rộng. Từ sau đêm 19/12/1946, tiến hành đợt “tổng di chuyển” triệt để, rộng lớn để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Quân chính quy Việt Minh cũng được lệnh rút khỏi Hà Nội để bảo toàn lực lượng, chỉ để lại các đơn vị Tự vệ chiến đấu, Công an xung phong và Vệ quốc đoàn phối hợp với nhân dân Hà Nội tổ chức đánh trả và kìm chân quân Pháp. Vệ út là những em nhỏ không chịu đi tản cư, trốn ở lại trong thành để cố thủ bảo vệ Hà Nội. Các em cùng chiến đấu bên ụ súng, đường hào, bò luồn qua các lỗ đục tường dưới làn đạn của địch để làm giao liên. Các em tham gia bắn tỉa giặc Pháp, dẫn đường để bộ đội cắm cờ trên đỉnh Tháp Rùa, tiếp tế đạn và đưa cơm, hát những bài ca cách mạng để lính Pháp lơi lỏng tinh thần chiến đấu. Những em bé “Ga-vơ-rốt” của Hà Nội chỉ từ 8-14 tuổi, nhưng sẵn sàng đổ máu vì thủ đô yêu dấu của mình.

Vũ Thị Nhâm mồ côi mẹ, anh trai của Nhâm là chiến sĩ biệt động nội thành 17 tuổi Vũ Đình Lân. Anh bị Pháp bắt và đem bắn giữa rạp Chuông Vàng, gia đình không được nhận xác. Chị gái và anh rể của Nhâm đều tham gia lực lượng Quyết tử cho thủ đô, cô bé theo anh chị giữ thành như một điều đương nhiên. Cũng như những Vệ út khác, công việc của bé Nhâm là đưa cơm cho các chiến sĩ giữ chốt, liên lạc, truyền tin, dẫn đường…

“Chúng tôi bé nhỏ, luồn lách qua các lỗ tường, chạy thật nhanh qua các dãy phố. Trên sân gác cao là bọn Việt gian cầm súng nhắm sẵn, nếu không đủ nhanh nhẹn, sẽ bị bắn gục trên phố” - sau này, bà lão ngoài 80 tuổi Vũ Thị Nhâm nhớ lại. Trong số 175 bé giao liên, duy nhất Nhâm là con gái. 13 tuổi, coi như chị cả, Nhâm được phân công ở tiểu đội Trường Ke. Điểm chốt này là cửa ngõ huyết mạch để nhận lệnh chỉ đạo, lương thực, vũ khí chuyển từ ngoại thành vào qua cầu Long Biên. Vũ khí của điểm chốt Trường Ke chỉ vài khẩu súng thô sơ, dăm quả lựu đạn, chai xăng... Và đó là hoàn cảnh “khí tài” chung của lực lượng Tự vệ thủ đô. Đối nghịch lại, phía Pháp là vũ khí hạng nặng và đội quân tinh nhuệ.

“Sáng 14/1/1947, tôi đi đưa cơm và lấy lệnh truyền, nhìn lên cầu Long Biên đã thấy quân Pháp chia làm ba mũi vây chốt Trường Ke. Tất cả tiểu đội tỏa ra các mái nhà, ném lựu đạn và bắn tỉa xuống bọn giặc dưới đường. Tôi thấy Trần Ngọc Lai, cậu Vệ út 12 tuổi chuyển lựu đạn tiếp viện từ chốt chỉ huy trên phố Đào Duy Từ vào. Lai vấp phải địch, em giật kíp nổ ném vào tốp địch, ba tên Pháp chết tại trận. Lai bị bắn ngã xuống đống gạch, em vĩnh biệt cuộc đời ngay trước mắt chúng tôi. Ngay sau đó trung đội tiếp viện đến, tất cả chúng tôi chiến đấu trong đau xót và hờn căm với tiếng hét xung trận “trả thù cho em Lai”. Trận Trường Ke đã thắng lợi trên mất mát như thế, em Lai vẫn sống mãi trong nỗi nhớ của tôi…” - bà Nhâm xúc động hồi tưởng.

Nhung 'vien gach nho'  cua ky tich 60 ngay dem  bao ve Thu do

Vũ Thị Nhâm khi vào chiến dịch Điện Biên Phủ

QUYẾT TỬ CHO TỔ QUỐC QUYẾT SINH

Với bà Nhâm, ký ức của 67 năm trước vẫn vẹn nguyên, với hình ảnh của từng đồng đội, với nhiệt huyết chảy trong trái tim non nớt của cô bé 13 tuổi. “Tết 1947, tất cả chúng tôi đã òa khóc khi nhận được thư Bác gửi vào. Bác viết, ngoài kháng chiến, Bác - Chính phủ và nhân dân không nỡ ăn Tết. Biết các em trong đó gian khổ vất vả. Các em là đội cảm tử. Các em quyết tử để Tổ quốc quyết sinh…”. Tối 14/1/1947, chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô làm lễ Quyết tử tại rạp Chuông Vàng, những em nhỏ Vệ út cũng làm lễ thề “hy sinh đến giọt máu cuối cùng không rời Hà Nội”. “Trẻ con không biết lý tưởng cộng sản là gì, chúng tôi thấy xác bà con mình chất thành đống vì đói, thấy cảnh đốt giết của giặc Pháp thì hờn căm sôi sục. Những đứa trẻ nghĩ về cái chết có thể đến với mình mà không mảy may sợ hãi…” - bà Nhâm nhớ lại.

Đầu tháng 2/1947, Bộ chỉ huy quyết định đưa Trung đoàn Thủ đô ra ngoại thành Hà Nội để bảo toàn lực lượng cho kháng chiến lâu dài. “Chúng tôi chỉ được biết lệnh rút ngay trước giờ khởi sự, mỗi người mang theo một ruột tượng đựng gạo, bộ quần áo, cái khăn mỏng, hai quả lựu đạn. Hà Nội mưa và rét buốt, 10g đêm 17/2/1947, 1.200 con người tập trung ở bãi bồi dưới gầm cầu Long Biên. Trên cầu lính Pháp đi tuần, đèn pha quét loang loáng, đoàn người dưới gầm cầu buộc dây thừng vào tay nhau, thấy di chuyển được thì người đi trước giật dây, cứ thế tiến trong đêm đen không một tiếng động.

Tiểu đội trinh sát của đồng chí Nguyễn Ngọc Nại nhận nhiệm vụ đưa Trung đoàn Thủ đô rút ra ngoại thành. Hàng trăm con đò nhỏ của nhân dân từ bên kia sông đã chờ đón chúng tôi. Trong một đêm, 1.200 chiến sĩ và dân thường rút khỏi vòng vây của Pháp trót lọt, không một tiếng súng nổ, không một người bị thương. Tiểu đội trinh sát của Nguyễn Ngọc Nại rút cuối, lúc đó trời vừa sáng, họ đã hy sinh khi thu hút hỏa lực về phía mình để những chuyến đò cuối cùng về bên kia sông an toàn. Sau đó Pháp tổ chức càn và tàn sát Tứ Tổng, ngôi làng đã đón đoàn quân cảm tử Thủ đô” - bà Nhâm rơm rớm nước mắt khi dòng hồi ức trở lại.

Với lực lượng chênh lệch, vũ khí thô sơ, chống lại lực lượng tinh nhuệ được vũ trang hiện đại, cầm chân và tiêu hao quân Pháp trong gần hai tháng - đó là kỳ tích của đội quân Quyết tử. Nhiều Vệ út tiếp tục chiến đấu trong lực lượng của Trung đoàn Thủ đô cho đến ngày Hà Nội hoàn toàn giải phóng. Vũ Thị Nhâm được cử đi học y tá, cô theo chiến dịch Điện Biên Phủ, làm nhiệm vụ sơ cứu thương binh tại chiến trường. “Ngày tiếp quản Hà Nội tôi không có mặt, nhưng tất cả nỗi vui mừng và xúc động lớn lao về sự kiện ấy thì mãi mãi thiêng liêng và âm vang trong cuộc đời tôi. Chúng tôi chỉ là những viên gạch nhỏ trong công trình 10/10/1954 vĩ đại của lịch sử. Nhưng được góp sức, được sống bằng trọn vẹn niềm tin của mình cho lý tưởng Tổ quốc - tôi hằng tin mình đã có một cuộc đời đầy ý nghĩa”.

Những người anh em Vệ út năm xưa của bà Nhâm giờ ở tuổi 80-90. Họ thường gặp lại nhau vào ngày 10/10, dù rằng mỗi năm mỗi vắng. Ký ức anh hùng như một ngọn lửa kiêu hãnh và mộc mạc, cháy mãi không nguôi trong lòng thế hệ của bà.

QUỲNH LAM

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI