Nhớ thương ngày cũ

25/01/2024 - 10:11

PNO - Tôi chợt nhận ra rằng, hạnh phúc đôi khi chỉ đơn giản là những ngày cuối năm được trở về căn nhà xưa.

Nhắm mắt lại, tôi vẫn hình dung rõ mồn một căn nhà xưa cũ - căn nhà đầu tiên ba mẹ tôi mua được khi vào Nam sống. Nhà nhỏ, nằm trong xóm lao động nghèo, thuộc xứ đạo Tân Thành, hồi đó gọi là vùng ven, ngoại ô, dù chỉ cách chợ Bến Thành chưa đến 10km, ở khoảng giữa ngã tư Bảy Hiền và chợ Bà Quẹo.

Nơi đây, anh em tôi được sinh ra, lớn lên trong sự thương yêu và nỗi nhọc nhằn, vất vả của ba mẹ, nơi gói ghém, giữ gìn biết bao kỷ niệm vui buồn của thời thơ ấu.

Cái nợ "ve chai" của ba

Ký ức về ngôi nhà tuổi thơ cũng gắn liền với những gánh hàng trước ngõ của hàng xóm. Suốt dọc theo con hẻm, người ta bày hàng ra bán, mùa nào thức đó, quanh đi quẩn lại cũng chỉ là những món quà quê, mộc mạc, rẻ tiền: bắp luộc, bắp nướng, khoai lang, khoai mì, khô mực, mía ghim, mía hấp, bánh trái, cóc, ổi, xoài. Buổi tối thì có thêm khô mực, khô thiều, bánh tráng nướng, xe mì gõ…

Những năm bao cấp, đời sống khó khăn, ba tôi bươn chải làm hết nghề này đến nghề nọ để mưu sinh. Ba tôi có nghề “mua bán ve chai” - mỗi ngày ông đạp xe khắp hang cùng ngõ hẻm mua đồ về bán ở “chợ trời” Lăng Cha Cả. Hôm nào “trúng mánh”, mua được nhiều đồ giá rẻ, đạp xe về đến nhà là ông tếu táo, ngâm nga: “Đi không há lẽ lại về không. Cái nợ “ve chai” phải trả xong”.

Ba của tác giả cùng các con trai (tác giả đứng thứ hai từ phải sang)
Ba của tác giả cùng các con trai (tác giả đứng thứ hai từ phải sang)

Buổi tối rảnh rỗi, ba lại kiểm tra bài vở, dạy dỗ anh em tôi học. Nhờ vậy, anh em tôi đứa nào học hành cũng khá. Ba vui tính, rộng rãi và phóng khoáng, nhưng rất nghiêm khắc. Lúc nhỏ, anh em tôi đùa nghịch trong xóm mà để có người đến “mắng vốn” là sẽ “ăn” ngay mấy cây roi quắn đít. Ông nói, đã đi chơi mà để phiền hàng xóm thì không thể chấp nhận được. Có lẽ đây là một trong những lý do khiến mọi người quý mến ba mẹ tôi, vì không bao giờ bênh con để làm mất lòng hàng xóm láng giềng.

Nhà ông bà nội tôi ở ngay đầu xóm, cách nhà tôi đúng 1 căn. Mỗi khi anh em tôi phá phách hay làm điều gì không phải, ông chỉ mặt mắng ngay, rồi ông đến trách ba tôi: “Mày dạy con vậy à”. Ba tôi chỉ biết cúi đầu nhận lỗi và rồi đứa phạm lỗi sẽ bị một trận đòn nên thân. Có lẽ nhờ sống dưới cả “2 tầng áp bức” như vậy mà sau này lớn lên, anh em chúng tôi dù không giàu có, nhưng sống ngay ngắn, tử tế; chẳng đứa nào dám làm điều gì sai trái ảnh hưởng đến nền nếp gia đình.

Giờ ba đã qua cái tuổi “cổ lai hi” từ rất lâu, còn tôi cũng vào lứa U60. Biết con mình thèm những món ăn ngày xưa, nên thỉnh thoảng nấu món gì ngon, ba lại gọi điện thoại: “Hôm nay, đi chợ thấy cá linh tươi, ba mua 1 ký kho cho con, chiều đi làm về ngang nhà ba ghé lấy về ăn”. Mẹ mất đã 30 năm, một mình ba phải đóng cả 2 vai để nuôi dạy 9 đứa con.

Ngoài việc lèo lái gia đình, ba còn kiêm luôn chuyện chợ búa, bếp núc. Ba nấu ăn trên cả tuyệt vời. Đến nay, anh em tôi đều đã có gia đình riêng, nhưng vẫn thèm những món ba nấu, vẫn chạy về nói ba nấu cho món này, món nọ. 

Tôi mang nồi cá kho về. Bữa cơm chiều, vợ và con gái cứ xuýt xoa khen: “Ông nội kho cá ngon quá”. Đúng là “nước mắt chảy xuôi”, ba đã ở vào cái tuổi phất phơ lau trắng mà vẫn chăm chút từ miếng ăn cho thằng con già đầu. Còn thằng con, đầu cũng bắt đầu lấm tấm bạc mà xét ra, vẫn chưa làm được điều gì cho ba. Nghĩ vậy, chợt nghe con cá linh trong miệng bỗng có vị đăng đắng…

Ba của tác giả thích nhất ngày tết, con cháu  tụ tập vui vẻ (tác giả đứng thứ hai từ trái sang)
Ba của tác giả thích nhất ngày tết, con cháu tụ tập vui vẻ (tác giả đứng thứ hai từ trái sang)

Xôi mẹ nấu ngon nhất trên đời 

Căn nhà xưa gắn liền với hình bóng mẹ tôi. Những năm sau này, khi việc mua bán của ba trở nên khó khăn hơn, mẹ trở thành lao động chính, gánh vác cả gia đình.

3g sáng, trời tối om om, mẹ đã thức dậy nấu xôi rồi vội vã gánh đi bán lúc trời còn mờ sương. Trước khi ra khỏi nhà, mẹ gói cho anh em tôi mỗi đứa một phần xôi, rồi gọi tôi dậy để đóng cửa. Dưới thúng xôi có bếp lửa để hâm xôi lúc nào cũng nóng. Mẹ đi, cái bếp cứ đỏ lửa, nhấp nháy trong màn sương sớm. Hơi nóng của bếp lửa ấy cũng xua bớt đi phần nào cái giá rét, lạnh lẽo, sưởi ấm mẹ những buổi sáng mùa đông.

Mấy chục năm ròng quảy gánh xôi đi bán khắp các ngả đường đã khiến vai mẹ chai sần, chân nứt nẻ như cánh đồng mùa khô hạn. Ngày mưa hay ngày bão, mẹ cũng chỉ quàng thêm 1 tấm ni lông quanh cổ che mưa, rồi vẫn bươn bả quang gánh ra đi. Ngay cả những hôm ốm đau, chưa bao giờ tôi thấy mẹ nghỉ bán; mẹ sợ mình nghỉ thì con mình đói. Tiếng rao và bếp lửa đỏ cứ nhỏ dần, nhỏ dần… Mẹ gánh xôi đi xa rồi, tôi vẫn cứ dõi theo mãi.

Một người mẹ quê mùa, ít học, suốt đời tần tảo, gồng gánh, vất vả nuôi anh em tôi khôn lớn, nên vóc, nên hình. Mẹ chưa một lần được cắp sách đến trường nhưng đã gieo vào trong tôi lòng yêu quý sự học. Những năm bao cấp khó khăn, nhiều người trong xóm cho con nghỉ học, đi làm kiếm thêm thu nhập phụ giúp gia đình, nhưng mẹ vẫn nhất quyết không cho anh em tôi bỏ học. Mẹ làm mọi việc, dù nặng nề, khó nhọc, để anh em tôi dẫu bữa no bữa đói vẫn được cắp sách đến trường.

Mẹ nói: “Thời buổi nào cũng vậy, có học vẫn hơn con ạ”. Tôi mang theo lời mẹ dặn suốt cả cuộc đời, để đến hôm nay tóc trên đầu đã lớm chớm bạc, tôi vẫn cặm cụi đến trường, góp nhặt từng con chữ.

Có một nỗi niềm ân hận, day dứt khôn nguôi là khi anh em tôi khôn lớn, trưởng thành, có thể chăm sóc cho mẹ tử tế, an hưởng tuổi già, bù đắp cho mẹ những vất vả ngày qua thì mẹ đã không còn nữa. Dù tóc đã hoa râm, tôi lại ao ước được trở lại làm thằng bé năm nào, để mỗi sáng dậy sớm mở cửa cho mẹ gánh xôi đi bán, rồi đợi đến trưa muộn ra đầu ngõ ngóng mẹ về. Bây giờ, mỗi lần ăn xôi là tôi lại bùi ngùi nhớ mẹ. Xôi mẹ nấu, với tôi vẫn là món xôi ngon nhất.

Thời gian dâu bể, cơn lốc đô thị hóa đã cuốn mất căn nhà xưa cũ. Cánh đồng xưa - nơi chất chứa bao nhiêu kỷ niệm tuổi thơ của chúng tôi - giờ thành khu Bàu Cát khang trang.

Ngày cuối năm, người ta í ới rủ nhau, lũ lượt về quê ăn tết. Nhìn những xóm trọ ngày thường tấp nập, giờ vắng tanh, nhà nào cũng “cửa đóng then cài”, lòng tôi lại chùng xuống, bâng khuâng, ray rứt. Quá nửa đời lang thang, phiêu bạt, vật vã, nhọc nhằn với cuộc mưu sinh, tôi chợt nhận ra rằng, hạnh phúc đôi khi chỉ đơn giản là những ngày cuối năm được trở về căn nhà xưa, đêm giao thừa thắp cho mẹ và ông bà một nén nhang thơm tưởng nhớ, rồi lặng yên ngồi nghe yêu thương ngày cũ trở về. 

Phạm Xuân Vinh

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI