Nhiều khu bảo tồn biển ở Việt Nam nằm trên giấy

10/11/2023 - 10:35

PNO - Sáng 10/11, Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam phối hợp với UBND tỉnh Quảng Nam tổ chức hội thảo nuôi biển tự nhiên kết hợp với bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản.

Tại hội thảo, bà Bùi Thị Thu Hiền - Giám đốc Chương trình biển và vùng bờ, Liên minh Bảo tồn thiên nhiên quốc tế, IUCN Việt Nam - cho biết: Tổng diện tích khu bảo tồn biển (KBTB) theo quy hoạch đến năm 2020 là 270.271ha, trong đó diện tích biển là 169.317ha. Đến nay, đã có 174.748ha diện tích biển được bảo tồn, quản lý (chiếm khoảng 0,175% diện tích vùng biển tự nhiên của Việt Nam).

Đến nay, đã thành lập 11 KBTB/VQG có biển: Vịnh Nha Trang, Cù Lao Chàm, Phú Quốc, Cồn Cỏ, Hòn Cau, Bạch Long Vĩ, Lý Sơn, VQG Bái Tử Long, VQG Cát Bà, VQG Núi Chúa, VQG Côn Đảo.

Tuy nhiên, 5 khu đã được quy hoạch nhưng chưa thành lập gồm: Cô Tô, đảo Trần, Hải Vân - Sơn Trà, Hòn Mê, Phú Quý, Nam Yết.

Theo bà Hiền, các KBTB đóng vai trò quan trọng trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học và bảo vệ các hệ sinh thái rạn san hô, thảm cỏ biển… và nguồn lợi thủy hải sản nhưng chưa thực sự ưu tiên phát triển và chưa đầu tư đầy đủ nguồn lực tài chính để phát triển cơ sở hạ tầng, đào tạo, giáo dục, và chi trả một loạt các chi phí thường xuyên.

“Điều này đã dẫn đến một số lượng lớn các “khu bảo tồn biển trên giấy”, nghĩa là các khu bảo tồn chỉ tồn tại trên văn bản nhưng lại không có hoạt động thực tế”, bà Hiền cho biết.

Hệ sinh thái trong khu bảo tồn biển Cồn Cỏ, Quảng Trị
Hệ sinh thái trong khu bảo tồn biển Cồn Cỏ, Quảng Trị

Theo IUCN Việt Nam, thách thức với các KBTB hiện nay là hoạt động đánh bắt thủy sản theo các phương pháp hủy diệt không bền vững; ô nhiễm biển từ đất liền và trên biển; xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho các hoạt động du lịch, đặc biệt trong các đảo vùng lõi; hoạt động phát triển vùng bờ; nhân sự và tài chính chưa đủ…

Đồng thời, hiệu quả quản lý các KBTB còn thấp do thiếu hoặc khung pháp lý chưa phù hợp; áp lực giữa bảo tồn và phát triển; cộng đồng cư dân trong và xung quanh các KBTB còn nghèo, dân trí thấp; chưa có chính sách chuyển đổi nghề nghiệp cho người dân sống trong và ven khu bảo tồn; thiếu cán bộ có chuyên môn sâu về quản lý bảo tồn biển; thiếu các công cụ giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của khu bảo tồn.

Từ đó, IUCN Việt Nam đề ra các giải pháp như: Định hướng quy hoạch vùng biển khoanh vùng bảo vệ đến năm 2030, tầm nhìn 2050. Thành lập và đưa vào hoạt động 27 KBTB với tổng diện tích vùng biển được khoanh vùng bảo tồn khoảng 454.676 ha, chiếm khoảng 0,454% diện tích tự nhiên vùng biển Việt Nam. 149 khu vực biển được khoanh vùng bảo vệ nguồn lợi thủy sản nhằm bảo vệ khu vực tập trung sinh sản, khu vực thủy sản còn non tập trung sinh sống của các loài thủy sản.

Đồng thời, mở rộng các khu vực được bảo vệ như: Khu vực đa dạng đa dạng sinh học cao (các vùng nước trồi, vùng rạn ngầm, vùng gò đồi ngầm); khu duy trì nguồn giống thủy sản; khu vực có biện pháp bảo tồn hiệu quả khác (OECMs); khu bảo tồn biển di động (mMPAs), có ranh giới thay đổi theo không gian và thời gian, bảo vệ nguồn lợi thủy sản và các loài di cư.

Thợ lặn thu bắt sao biển gai tại phân khu bảo vệ nghiêm ngặt khu bảo tồn biển Lý Sơn, Quảng Ngãi
Thợ lặn bắt sao biển gai tại phân khu bảo vệ nghiêm ngặt khu bảo tồn biển Lý Sơn, Quảng Ngãi

Theo một tính toán, cơ hội kinh doanh bằng cách sử dụng thiên nhiên làm cơ sở hạ tầng có thể đạt 160 tỉ USD và tạo ra 4 triệu việc làm vào năm 2030.

IUCN Việt Nam cũng đề xuất thêm giải pháp về sự tham gia của doanh nghiệp đầu tư vào nguồn vốn thiên nhiên (Creating a nature-positive economy - Tạo lập một nền kinh tế tích cực - tự nhiên), đây là một xu thế toàn cầu mà Việt Nam cũng cần phải chuẩn bị để thực hiện.

PGS.TS Võ Sĩ Tuấn - Phó chủ tịch VSA, nguyên Viện trưởng Viện Hải dương học Nha Trang - cho hay: Các KBTB ở Việt Nam hiện nay có hiệu quả thấp đối với tái tạo nguồn lợi thuỷ sản; vẫn còn tình trạng khai thác cạn kiệt, kể cả vùng lõi.

Tuy nhiên, tại các KBTB có tiềm năng thực thi pháp luật khi được quan tâm; có khả năng huy động nguồn lực. Do đó, TS.Tuấn kiến nghị nhiều hành động như chính sách quốc gia; lập kế hoạch tổng thể; huy động doanh nghiệp; tạo nguồn giống (nhân tạo và tự nhiên); bảo vệ và phục hồi sinh cư tự nhiên, rạn nhân tạo; nuôi lồng công nghệ cao, thân thiện môi trường kết hợp du lịch - nuôi đa loài.

Lê Đình Dũng

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI