Vì sao bà lại có cái tên là lạ là Anna Moi?

Tôi rất thích người miền núi, thời ấu thơ, tôi đã được đi theo bố công tác ở những vùng có người dân tộc ở, nhất là vùng Kontum và Pleiku. Hồi nhỏ, mẹ đã gọi tôi là “Mọi” - ý là cô con gái nhỏ bé…

Năm 1961, tầm 6 tuổi, tôi luôn nhớ những cảnh sống của người dân tộc thiểu số và tôi chạy chơi cùng những đứa bé người dân tộc. Tôi ấn tượng những mái nhà sàn. Nên khi sống ở Việt Nam, tôi đã thuê một mảnh đất ở Thanh Đa (TPHCM) và cho dựng lên 3 căn nhà sàn lợp mái lá.

Bây giờ, khi sang du lịch Việt Nam, tôi vẫn luôn thích đi miền núi ngủ nhà sàn. Những kỷ niệm ngày thơ ấu như những vết thương luôn ghi ấn trong tâm con người. Với tôi, cuộc sống của những người miền núi không khác biệt với mình, bởi một người nghệ sĩ như tôi nhiều khi cũng ở trong tình trạng đơn lập. Cái tên Anna Moi giống như Anna bé nhỏ, để nhớ và như một sự đồng cảm với những người dân tộc ấy.

Có phải ba má đã hướng cho bà học rất nhiều về nghệ thuật?

Mẹ tôi - bà Lê Thị Mảo, cùng với cô em ruột - bà Lê Thị Tuất, và chồng của cô - ông Vĩnh Bang, đã lập trường mẫu giáo đầu tiên ở Việt Nam. Đó là trường Mẫu Giáo Bách Thảo gần khu vườn Bách Thảo (Hà Nội) vào năm 1945.

Lúc ấy, Nhật vừa bị thả bom tại Hiroshima và họ rời Việt Nam, bỏ lại căn nhà biệt thự họ thuê của một đại gia – người cho gia đình tôi mượn biệt thự không lấy tiền nhà để lập lên trường mẫu giáo Bách Thảo. Họ còn cho những thùng gỗ của lính Nhật bỏ lại để đóng bàn ghế cho trường.

Phương pháp học của trường này đặc biệt ở chỗ dựa vào lý thuyết của Piaget. Ông cho rằng để trí óc đứa trẻ phát triển tốt, thì ngoài suy nghĩ phải dựa vào những năng lực nhận thức như âm nhạc, nặn đất sét, vẽ, múa.

Người đầu tiên tiếp cận bài học của Piaget là chú tôi - ông Vĩnh Bang. Tôi được trải qua những ký ức tuổi thơ như vậy.

Lớn lên, tôi được học piano với cô Cúc Xuân - giảng viên nổi tiếng của trường Quốc Gia Âm Nhạc. Ngoài việc học đàn, tôi xin mẹ học vẽ. Và tới giờ, nếu không là một người viết thì tôi vẫn thích vẽ và nặn tượng. Có lẽ gia đình chính là nơi giúp tôi có nền tảng của kiến thức sau này.

Bà có thể chia sẻ con đường văn nghiệp của mình, bà đã xuất bản tác phẩm đầu tay ra sao?

Từ năm 1972, khi còn học trường Marie Curie ở Việt Nam, tôi có đọc được thông báo về một cuộc thi thơ trên Tạp chí Seventeen dành cho thiếu niên của Mỹ. Tôi đánh bạo làm một bài thơ bằng tiếng Anh diễn tả cảm xúc bồi hồi của con người trước biển và gửi tạp chí. Bài thơ được đăng, và tôi nhận nhuận bút trị giá 20 USD từ Mỹ gửi về. Từ bấy giờ tôi bắt đầu nuôi mộng văn chương.

Năm 1973, tôi sang Pháp du học sau khi dành được học bổng. Lúc đầu tôi chọn khoa Sử. Do tôi thích viết và nghĩ mình phải học Sử nghiêm túc để có kiến thức chắc chắn, sau này viết gì cũng có nền tảng. Học được một thời gian, tôi lại chuyển sang học thời trang tại trường École de la Chambre Syndicale, trở thành nhà tạo mẫu thiết kế với một cửa hiệu tại kinh đô thời trang Paris.

Năm 1992, chồng tôi là một tiến sĩ kinh tế Pháp được cử qua Việt Nam làm việc với một công ty tư vấn về đầu tư. Sau đó anh làm hiệu trưởng trung tâm đào tạo về quản lý (CFVG). Hiện tại công ty vẫn ở Hà Nội và TPHCM. Tôi đã theo chồng về Việt Nam làm việc, sinh sống gần 20 năm.

Tôi và gia đình di chuyển khá nhiều nước trước khi trở lại Pháp. Tôi cứ âm thầm viết rồi gửi bản thảo qua bưu điện. Hai tập truyện ngắn đầu tiên được Les Editions de l’Aube nhận xuất bản ngay.

Sau đó, cuốn tiểu thuyết đầu tay “Riz Noir”, tôi gửi bản thảo cho 6 nhà xuất bản lớn. Trong đó, có 2 nhà xuất bản từ chối, và 2 nhà xuất bản muốn mua bản quyền. Sau khi thượng lượng, tôi quyết định không xuất bản với NXB mua bản thảo với giá cao nhất, mà tôi ký hợp đồng với Gallimard là NXB của những văn sĩ có tiếng như Marcel Proust hoặc Le Clezio đã được giải Nobel năm 2008.

Sự giao lưu của bà với giới văn học nghệ thuật ở Pháp như thế nào? Bà có đọc tác giả Việt Nam nào ở Pháp, và ở Việt Nam không?

Khi sách xuất bản, tôi được mời tham gia những Liên hiệp sách lớn như Foire du Livre de Paris hay Festival Etonnants Voyageurs, Foire du Livre de Brive-la-Gaillarde và bao giờ cũng có nhiều độc giả đến mua sách, trò chuyện. Ngoài ra tôi được mời tham gia những chương trình trên truyền hình, như: chương trình về văn học “L’humeur vagabonde” của Kathleen Evin trên đài France Inter.

Về văn học trong nước, tôi rất mê văn của Nguyễn Huy Thiệp. Cách viết của ông về con người, nhất là người dân ở quê ẩn dụ nhưng rất hiện thực

Cuốn “Nọc bướm” của bà được giải thưởng Littérature-monde của Pháp, một thành viên trong ban giám khảo đã cho rằng: “Cách quan trọng là tác giả đưa chúng ta bước vào cuộc sống của một thiếu nữ, vào cuộc khám phá giới tính của cô ấy…”, bà có thể chia sẻ thêm về điều này?

Đây là lần đầu tiên tôi viết một tiểu thuyết liên quan đến kỷ niệm của chính mình vào những năm 1972-1973. Tiểu thuyết này đặt ra những câu hỏi về tuổi thiếu niên và bạo lực, xoay quanh câu chuyện của Xuân -  một cô gái độ tuổi dậy thì trong bối cảnh hậu thuộc địa Pháp và cuộc chiến leo thang của Mỹ. Cô gái ấy đã có nhiều trải nghiệm với một tuổi trẻ đầy biến cố. Cô gái sống với câu chuyện tình yêu, tình bạn của mình giống như những người khác. Họ làm việc của họ, không bận tâm đến những gì xảy ra xung quanh và những người có thể cản bước họ… Với tôi, công cuộc khám phá văn chương hay rộng lớn hơn, là khám phá cuộc sống, đó chính là sự tự do lớn nhất.

Bà có chia sẻ rằng, để viết được câu mở đầu một tác phẩm, có khi mất cả năm…

Bạn cứ viết câu đầu tiên, chưa thỏa mãn, thì viết hoài… Quan trọng là tìm được giọng điệu thể hiện riêng của mình. Rảnh là tôi không viết, bởi rảnh, tôi sẽ vẽ và làm điêu khắc.

Khi viết văn, tôi có cảm giác mình đã tiến được một bước rất dài trong hành trình cuộc đời. Cảm giác nhẹ nhõm như được thoát khỏi trần gian mỗi khi tôi hoàn thành xong một cuốn sách.

Bà có thể chia sẻ một chút về gia đình mình?

Tôi có 3 con trai, Stan (Nam), Leon-Paul (Kha) và Louis (Hồng Hà). Lúc gia đình về định cư ở Việt Nam thì các em bé tí (năm 1992 lúc sang Việt Nam, Hồng Hà mới được một tháng…), đi học trường Pháp tại TPHCM, sau đó qua Paris học tiếp. Nam nay đã thành lập công ty chuyên về ẩm thực. Kha đang làm việc cho một công ty Pháp hợp tác với Hà Nội trong việc thiết kế đô thị. Còn Hồng Hà học điện ảnh.

Chồng tôi - Laurent Schwab - là một tiến sĩ về môn kinh tế của Trường Sorbonne. Chúng tôi gặp nhau ở Tokyo và lấy nhau lúc mới 25, 26 tuổi. Chúng tôi chia tay vào năm 2001 và sau đó tái hợp. Đó là thời gian tôi xuất bản quyển sách đầu tiên và có thể nói, giai đoạn này trong cuộc đời, tôi cần đi tìm sự tự do tối đa…

Sau 10 năm không liên hệ, tôi và anh “gặp” lại nhau. Cả hai lại yêu nhau mãnh liệt như thuở ban đầu. Chúng tôi làm đám cưới lần 2 tại Paris năm 2014. Hiện hai vợ chồng sống rất hạnh phúc. Laurent luôn coi Việt Nam là quê hương thứ hai của mình.

 

Bà có quan tâm tới xã hội việt Nam đương đại không?

Tôi rời Việt Nam về sống bên Pháp không quá lâu, và vẫn đi lại nên không thấy quá bất ngờ với những thay đổi của Việt Nam. Tôi chỉ ngạc nhiên nhất là khi tiếp xúc với giới trẻ, họ không mang trong mình những vết tích của chiến tranh, họ sống theo lý tưởng.

Nghe nói hiện tại bà đang tham gia dạy viết văn?

Tôi dạy cho vui, nhóm nhỏ thôi, và viết không phải để kiếm tiền. Tôi có duy trì workshop gồm khoảng 4-5 người Pháp, cùng trao đổi kinh nghiệm và thực hành viết.

Đó là một ông Giáo sư Toán, một Tiến sĩ Curator Bảo tàng, một bà Tiến sĩ Y học… Họ có sở thích chung là viết và khá kiên nhẫn. Tôi không có kế hoạch gì, nhiều khi không làm gì, như kiểu cố ép cũng chẳng làm được gì, rồi một lúc nào đó, cái điều chờ đợi nó cũng tới.

Sau “Nọc bướm” tôi đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết “12 lâu đài ký ức” viết về cuộc phiêu lưu của hai cha con trên biển. Đây là một hành trình nội tâm, một chuyến đi linh thiêng của một người tìm hiểu về chính mình. Sắp tới, tôi cố gắng hoàn thiện một cuốn sách xoay quanh câu chuyện tình vào thời kỳ bao cấp. Nhân vật chính, có thể là một chiếc xe đạp.

Ở Việt Nam, thời gian nào ghi dấu sâu đậm nhất với bà?

Mỗi nơi đều là thời gian trải nghiệm, nhưng thú vị nhất là Hội An. Tôi rất mê Hội An, bởi ở đó có sông, có biển, có đường phố nhỏ xinh và tôi ngày ngày có thể đi xe đạp dạo chơi trên phố. Nhiều khi tôi muốn sống một mình để làm những điều mình thích, và đây là quãng thời gian tuyệt vời.

Chia sẻ bài viết: