Đi sâu vào những khác biệt
Annie Ernaux được ca ngợi vì “lòng dũng cảm và sự nhạy bén trong cách khám phá ra nguồn cơn, sự ghẻ lạnh và những hạn chế mù mờ của ký ức cá nhân”. Sinh ra tại thị trấn Yvetot ở Normandy vào năm 1940, Annie là con gái của một gia đình xuất thân nông dân, lớn lên trong một quán cà phê kiêm tiệm tạp hóa nhỏ của cha mẹ mình.
|
Nhà văn Annie Ernaux |
Annie Ernaux là người tái hiện ký ức trong các tác phẩm. Cũng như nhà văn Pháp giành giải Nobel trước bà - Patrick Modiano - mỗi quãng thời gian của Ernaux sẽ được thể hiện trong một cuốn sách, và đó thường là những ký ức khó khăn, những sự thật có phần đau đớn. Do đó tác phẩm của bà thường được viết bằng lối viết trung tính, dửng dưng, bộc trực, không ẩn dụ và không hàm nghĩa. Dung lượng những tác phẩm này cũng thường khá ngắn, không vượt quá 200 trang. Tại Việt Nam, hai tiểu thuyết gồm Một chỗ trong đời và Hồi ức thiếu nữ của bà đã được giới thiệu.
Một chỗ trong đời được viết vào năm 1974, nói về mối quan hệ giữa bà và cha mình sau cái chết của ông. Ở cuốn sách này, Ernaux khảo sát trở lại những cách ngăn giữa giới tính, chủng tộc và giai cấp trong sự xa lạ của mối quan hệ. Là một nông dân trở thành công nhân, cha của Ernaux luôn thấy mình ở tầng lớp dưới, bị ám ảnh bởi bóng ma của sự đói khổ, xấu hổ và nhục nhã.
Thế nhưng, trong khi Ernaux tìm được giãi bày thông qua mẹ mình, thì mối quan hệ giữa cô và cha ngày càng xa cách, khi cô bước vào giới tiểu tư sản ở trường đại học, cô nói được tiếng Anh và dần rời xa hai người. Tuy thế trong tác phẩm này, Ernaux vẫn dành một sự thương yêu cho ông, trong những câu văn có phần nhỏ bé và được ẩn giấu ở những góc riêng. Một chỗ trong đời được đánh giá là một trong những tác phẩm quan trọng, và đã mang về cho Ernaux giải thưởng Renaudot danh giá vào năm 1984.
Kiêu ngạo và những ham muốn
Hồi ức thiếu nữ lại là tác phẩm vô cùng đau đớn theo một kiểu khác. Như chính Ernaux thừa nhận, ký ức vào năm 1958 “hoàn toàn không thể chịu nổi”. Việc viết về nó là một nỗ lực hồi tưởng luôn bị trì hoãn trong các dự án viết sách của bà, và bà đã phải “đánh vật cùng với thực tại”.
Được kể song song giữa hai giọng, của người phụ nữ vào năm 2014 - là bà và người thiếu nữ của năm 1958, Hồi ức thiếu nữ là cuộc xâm nhập trở lại ký ức, để thể hiện những nỗi e sợ cũng như khát khao, trong sự phản kháng, nổi loạn và bất tuân uy quyền.
Năm 1958, bà đã đến trại hè S. làm công việc xã hội ở tỉnh Orne để quản lý các trẻ em. Bị cuốn theo những người quản lý khác, bà đã buông mình và rồi tận hưởng những điều mới mẻ có liên quan đến tình dục và những khát khao yêu đương. Là cô con gái bị giam cầm trong nỗi nghi ngại của cha mẹ từ sau cái chết của người chị gái, theo học tại ngôi trường tôn giáo khắc nghiệt, “cô gái 58” có hiểu biết xã hội gần như bằng không. Ở trại hè đó, cô bị người trại trưởng H. chiếm lấy thân xác rồi rời bỏ cô. Với Hồi ức thiếu nữ, Annie Ernaux cho thấy sự dũng cảm của mình trong việc phơi bày những nỗi xấu hổ, những ham muốn cũng như khát khao yêu đương không thể tỏ bày.
Thông qua đó, bà còn phản ánh thế hệ thanh niên Pháp đang bị đè nén và mong muốn bứt ra khỏi mọi giới hạn, cũng như giới nữ đang phải chịu đựng quá nhiều xét nét, nghi kị về các khát khao, đam mê giản dị. Cũng có thể vì lý do này, mà về sau, bà là một nhà ủng hộ nữ quyền một cách nhiệt thành. Trong năm nay, khi phán quyết phá thai được Tòa án Mỹ lật ngược, cuốn sách Happening nói về quãng thời gian bà bí mật phá thai bỗng nóng trở lại. Và đây cũng được coi là một trong những lý do đem lại chiến thắng cho bà.
|
Hai tác phẩm đã được chuyển ngữ của Annie Ernaux |
Tín hiệu đáng mừng
Việc vinh danh Annie Ernaux cho thấy Ủy ban Nobel đã biết lắng nghe sự bình đẳng về giới. Theo đó, trong suốt lịch sử trao giải từ năm 1901, trong số 118 nhà văn đã được vinh danh, chỉ có 17 nhà văn nữ được gọi tên. Thế nhưng chỉ trong 5 năm gần đây, ba tác giả nữ: Olga Tokarczuk (2018), Louise Glück (2020) và Annie Ernaux (2022) đã có tỷ lệ chiến thắng ngang bằng các nhà văn nam, ít nhiều cho thấy một sự loại trừ định kiến.
Tuy nhiên, xu hướng tập trung vào “địa hạt” quen thuộc là văn học châu Âu và Bắc Mỹ vẫn chưa thay đổi. Trong thập niên 2010, chỉ có duy nhất Mạc Ngôn là một đại diện đến từ châu Á (nếu không tính nhà văn Anh gốc Nhật Kazuo Ishiguro), hoàn toàn thiếu vắng các châu lục khác. Mặc cho năm 2021 Abdulrazak Gurnah đã được vinh danh, thì ông vẫn là nhà văn Anh gốc Tanzania, và cũng viết bằng tiếng Anh.
Chiến thắng hai năm gần đây cũng chứng minh Ủy ban Nobel đang rất quan tâm đến các vấn đề thời đại. Không chỉ tập trung vào chất lượng văn chương, chiến thắng của Abdulrazak Gurnah trong các xung đột chính trị, cũng như Annie Ernaux trong việc Tòa án tối cao Hoa Kỳ lật ngược phán quyết về quyền phá thai lại là những vấn đề thời sự rất nóng.
Ngoài ra, xu hướng tìm về những “nhà văn không ai biết”, thiếu cân bằng với tính thương mại vẫn còn tồn tại. Bởi lẽ cũng như Gurnah, Ernaux chỉ được biết đến ở thị trường nói tiếng Anh vài năm gần đây. Và trong cuộc khảo sát nhanh sau khi công bố giải thưởng, chỉ có 18% nói rằng họ đã từng đọc tác phẩm của bà. Dù sao đây là tín hiệu đáng mừng, khi các vấn đề về giới đã được ủy ban lắng nghe nhiều hơn.
Ngô Minh