Dân gian thường nói, “đàn bà xây tổ ấm” hay “phụ nữ là người giữ lửa cho ngôi nhà”. Không biết người ta nói vậy là nhằm ca ngợi hay giao trọng trách “cao cả” này cho phụ nữ. Nhưng rõ ràng cho thấy, cái tạo nên hạnh phúc cho một gia đình, luôn luôn phải gìn giữ là sự ấm áp. Mà nơi ấm áp nhất (cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng) trong mỗi căn nhà chính là gian bếp, bởi vì ở đó có lửa, có bữa cơm gia đình - khoảnh khắc duy nhất có thể tề tựu đủ mặt các thành viên trong nhà.
Tôi may mắn trải qua suốt “chiều dài lịch sử” của cái bếp. Tuổi thơ tôi ở với ngoại trên một dãy cù lao nằm giữa bốn bề sóng nước sông Tiền. Tôi đã có nhiều lần say sưa ngồi nhìn ông ngoại tôi nắn mấy cái đầu rau và cà ràng bằng đất sét trộn với trấu. Bàn tay ông quanh năm cầm cuốc vá, cày bừa, to bè thô ráp là vậy. Nhưng khi nhào nặn đất sét, mấy ngón tay ông lại mềm mại, thoăn thoắt, lã lướt không thua một nghệ nhân.
Mấy cái đầu rau chụm lại nằm kế bên cái cà ràng đặt trên một cái giàn cũng được đắp bằng đất. Đó là cái giàn bếp trong gian bếp nhà ngoại tôi. Mỗi hừng đông khi tiếng gà vẫn còn gáy đuổi nhau tạo thành một giai điệu rộn ràng thì mấy cái bếp của bà ngoại tôi đã phừng phừng lửa đỏ.
Mặc dù còn ngây ngủ nhưng hễ nghe ngoại trở mình thức giấc, là tui cũng nhảy xuống đất cái độp, lẽo đẽo theo ngoại. Tôi ngồi co ro trên bộ ván ngựa, nhìn bóng ngoại lung linh bên bếp lửa. Nghe tiếng củi khô nổ tí tách bắn ra những tia lửa đỏ bé xíu, bám lên cái đít nồi đen thui, chớp tắt liên hồi như bầu trời đêm chi chít những vì sao. Mùi thơm của củi khô, của khói… trộn với mùi dầu dừa từ mái tóc bà ngoại tỏa ra ngập tràn gian bếp. Tôi biết vì đâu tôi có một tuổi thơ thật thơm tho và ấm áp.
Sau này tôi về Sài Gòn ở với ba má. Cuộc sống thành đô văn minh hơn, bếp của má là cái bếp dầu hay còn gọi là lò xô, “chụm” bằng dầu lửa. Cái bếp hình trụ, màu xanh lá được làm từ sắt cán mỏng tráng men, phân biệt lớn nhỏ bằng số tim 12 – 14 - 16. Muốn nhóm bếp thì dùng cây rọi tẩm dầu đốt lên quay một vòng cho mấy cái tim lò bắt lửa. Còn khi muốn tắt bếp thì “chu mỏ” thổi phù một cái (hay mấy cái là do “hên xui”).
Tôi không ưa cái ngọn lửa đỏ lè khi tim lụn chưa kịp thay và cực kỳ ghét cái mùi hôi sau khi bếp tắt. Không kể xài một thời gian, bếp sét rẹt xấu xí bởi mắm muối, nước trào…
Từ bếp dầu đổi qua bếp gas là một cuộc “đổi đời” nhiều tự hào, vui sướng hơn là tiếc nhớ. Bếp gas giải quyết được rất nhiều thứ bất tiện cho những gian bếp nhà phố, có không gian chật và kín. Nó thuận lợi vì không phải dự trữ chất đốt, không phải chùi xoong nồi, tiết kiệm thời gian và mang đến vẻ thẩm mỹ nhất định cho gian bếp.
Nhưng năm nào giáp tết, bà ngoại lên thăm mang thịt thà rau củ từ dưới quê lên tiếp tế cho con cháu, bà ngoại cũng chê thậm chê tệ: “Thịt kho rệu kho bếp củi mới ngon, chứ kho bếp gas mà ăn cái gì”. Thấy mọi người len lén cười, bà ngoại khẳng định: “Cái gì bếp gas mần được là bếp củi mần được tuốt, nhưng nhiều cái bếp củi mần được mà bếp gas mần hổng được à nha!”. Ai cũng “chịu thua” không dám trả treo với ngoại…
Bà ngoại tôi đã bay về phía bên kia bầu trời mấy chục năm rồi. Cái bếp gas vẫn bền bỉ hiện diện trong các gian bếp hằng thế kỷ, không chỉ ở thị thành mà sau này còn tràn về các vùng nông thôn, kể cả khi bếp từ được sản xuất đại trà.
Những ngày trải qua đại dịch Covid 19, việc đổi gas trở nên khó khăn và bất tiện, thêm nhiều vụ cháy nổ bình gas xảy ra, bây giờ hầu như nhà nào cũng xài bếp từ, bếp điện. Lo mẹ có tuổi, ở một mình, các con tôi cũng dẹp bếp gas, trang bị cho mẹ hai cái bếp từ.
Cái bếp củi với thị dân thành phố từ lâu đã trở thành quá vãng. Riêng tôi gian bếp với ánh lửa ập bùng, mùi thơm của củi khô, của khói…thi thoảng hiện ra trên trang viết như một hoài niệm về một thời quá khứ. Tôi cũng không còn nhớ cái “chân lý” không ai dám cãi của bà ngoại tôi. Cho đến một buổi sáng, thèm ăn bánh xèo, sau khi pha bột sẵn sàng, mới chực nhớ, bánh xèo phải đổ trên lửa ngọn, tôi thẩn thờ ngó cái bếp từ rồi đâm buồn ngang.
Hồi còn cái bếp gas, mỗi năm đưa ông táo về trời, tôi thường bật bếp gas lên cho… có lửa. Nhìn ngọn lửa tôi thấy mình được an ủi. Bữa nay đưa ông táo về trời, niềm an ủi ấy cũng không còn. Nhưng niềm an ủi của tôi năm nay là sau khi về quê xây một cái nhà nhỏ, tôi cũng không quên "sắm" cho mình bếp cũi. Dù cái bếp ấy năm thì mười họa mới được thắp lửa 1 lần nhưng lòng tôi cũng thấy vui, nhất là những ngày tết. Bởi chẳng qua là tôi cố giữ gìn một nếp xưa của ông bà tiên tổ, chớ giữa chốn phồn hoa đô hội thời buổi này làm gì còn bếp lửa.
Lương Gia Cát Tường