Mùi Tết

25/01/2020 - 07:30

PNO - Xa nguồn, hương cỏ đã phai. Tết, mỗi thời mỗi khác nhưng hề chi, có mùi hương, giá trị vẫn còn trong tâm tưởng.

 

Tôi quyết định ở lại làm thêm không về tết. Những ngày này tiền công cả trăm đô Úc. Vả lại cuộc điện thoại của mẹ tuần trước báo tin người yêu tôi lấy vợ còn làm tôi đau đớn. Anh ta cưới con gái giám đốc… Ngày cuối, tôi nghỉ làm, ngồi uống cà phê ở Saigon palace, nhấm nháp nỗi buồn trong xôn xao tiếng Việt quanh mình. Hôm nay bên nhà 29 tết.

Trước mắt tôi, dòng người đầu đen vẫn đổ về chợ Việt tấp nập mua sắm. Những cành mai giả, đào giả trong không khí hầm hập nóng cuối hạ Úc vẫn mang mùa xuân đến trong tâm thức người Việt.

Tôi gặp ông ở Bankstown, nơi nhiều Việt kiều Úc tập trung làm ăn sinh sống. Bankstown có khu chợ Việt, tiếng Việt nằm trên tiếng Anh, chính quyền đặt tên “Saigon place”. Saigon place những ngày cuối năm sực nức mùi tết Việt bởi người mình đi đâu cũng mang tết theo. Dù không được nghỉ họ vẫn sắm tết. Chợ tràn ngập bánh chưng, bánh tét, các loại mứt, bao lì xì, câu đối đỏ và hoa. Người ta xúm quanh các quầy cắm hoa nghệ thuật, gói bánh chưng tại chỗ… Mai đào thật hiếm thì mai đào giả. Vạn thọ quê mình không có thì vạn thọ giống Pháp, hoa to bằng miệng bát vàng rực chợ. Hiếm hoi mới có chậu hoàng mai còi cọc cành thật cắm hoa giả, những bông hoa mùa xuân không hương, hắt thứ nắng tháng Chạp quê nhà xa xăm nhung nhớ.

Trông ông khá nhạt bên sắc màu rực rỡ của chợ tết, bên những chiếc áo tứ thân phất phơ yếm dãi hay những tà áo dài thướt tha nhưng đi qua không thể không dừng. Bộ quần áo bà ba nâu có miếng vá làm điệu. Rồi cả thứ ông bán. Tết người ta bán hoa còn ông bán cỏ. Năm chậu sành lơ thơ nhúm cỏ mọn ghi tên Việt - thạch xương bồ. Tôi đưa điện thoại chụp. Ông khoe:

“Quý lắm đó. Gốc gác hắn tận đầu nguồn sông Hương, mọc trong khe đá. Ðoạn sông có thứ cỏ này nước thơm ngọt lạ thường, uống một ngụm chết liền vì sướng. Không phải ai mua cũng bán”.

“Rứa răng bác mời cháu?”.

“Vì cô biết dừng trước cỏ. Cỏ quý chứ không phải cỏ độc dân Rơm trồng mô nghe. Nhưng cô phải nhân thành ba chậu cho ba người. Cứ thế chẳng mấy chốc Sydney thơm cỏ thạch xương bồ” - ông cười khoái trá.

“Cháu thấy thơm chi mô, bác tưởng thì có” - tôi trêu ông già.

“Thì… thì… rời nguồn sông Hương, lênh đênh qua bao dâu bể, đến Úc nhân bao nhiêu giống mùi cũng nhạt phai. Chưa tuyệt chủng là may rồi”.

“Mần răng mà bác đem được qua đây?”.

 

“Mần răng mà…” - ông già ngẩn ngơ lặp lại mấy tiếng tôi vừa thốt - Hì… hì nghe lại tiếng quê mình thiệt đã! Răng mà đem qua được hử? Vì yêu chứ răng! Mươi lăm năm trước tui về thăm Huế, ghé nhà người bạn thấy trên bàn chưng một chậu cỏ. Giống cỏ ấy bạn kể được một người Pháp lấy từ đầu nguồn sông Hương vì nghe kể tên sông bắt nguồn từ cỏ ấy. Nước sông có mùi hương vì chảy qua một lớp cỏ thơm từ đầu nguồn tên thạch xương bồ. Tò mò ông ta thuê đò ngược sông Hương tìm và quả thật có một loài cỏ mọc chen ở khe, ghềnh đá có mùi thơm, hoa trắng nở về xuân. Tui xin ít rễ đem qua đây, lén lút như giấu bồ nhí. Nhưng nhân giống, rồi xa nguồn, thạch xương bồ không còn thơm lạ lùng như trước nữa. Có hề chi, mùi hương vẫn thoảng trong tâm tưởng… Mà cháu qua chơi hay qua học?”.

“Cháu học sắp xong rồi. Tết đi tìm hơi nhà”.

“Du học sinh Việt dịp nghỉ này về nhiều”.

“Năm ngoái cháu về rồi. Mà tết bên mình dạo này cũng chán, mùi tết nhạt dần…”.

“Mùi tết à?”.

“Dạ. Mạ cháu nói tết có mùi. Nó tỏa từ bếp ra nhà, ra sân, ra đường. Chính mùi ấy tạo nên hương vị, không khí tết”.

“Nè cháu, về nhà tui đi! Cháu đi kiếm hơi nhà. Còn bà nhà tui lại ưa tìm mùi tết. Tui mời!” - ông hấp háy mắt.

***

Nhà ông ở Lidcombe. Tết Việt vào cuối hạ Úc nên thời tiết oi bức, nắng chói chang. Nhưng bước vào vườn ông, tôi ngỡ như lạc vào một khu vườn xanh như ngọc ở Vĩ Dạ. Lối dẫn vào vườn không trồng cỏ cũng không lát đá. Ông bỏ dép đi chân trần, mặt tí tởn như đứa trẻ già.

“Tui thèm đi trên đường đất”.

Tôi cũng cởi giày để cảm nhận sự mát lạnh dịu dàng của mẹ đất thấu tới ruột gan.

“Ði chân đất sướng thiệt” - tôi phụ họa.

“Rứa mà tụi con tui bảo mất vệ sinh. Bà nó ơi, tui mang mùi tết về cho bà nì! Ði chợ rồi hở?” - ông dáo dác nhìn rồi tự trả lời.

“Răng bác rinh cái vườn Huế qua Úc được ri?” - tôi reo lên khi thấy cây cỏ quê nhà vượt ngàn trùng quây quần trong mảnh vườn nhỏ tận xứ Úc.

“Yêu thấu ruột gan là khó mấy mần cũng đặng”.

Hai ông cháu mô tê răng rứa như pháo nổ quên cả khoảng cách tuổi tác. Ông già vui vì gặp đồng hương có thứ để khoe, để kể. Ông đưa tay chỉ ngôi nhà trắng trên bãi cỏ có cái cửa thông qua vườn: “Bên nớ là nhà con tui. Vợ chồng con cái hắn Úc hóa hết nên tui lập vườn riêng ở cho thoải mái. Nhà hắn chỉ trồng cỏ theo kiểu Úc. Còn những thứ lôm côm khác tui trồng bên ni. Năm trăm mét vuông đất, quây quần đủ loại hoa cỏ quê nhà. Tui gom yêu thương về góc ở”.

“Rứa bác gái?”.

“Bà ấy ở bên ni nhưng vẫn qua lại bên nớ chăm cháu, nấu ăn. Chút nữa bà ấy sẽ đãi cô món vả trộn xúc bánh tráng, đặc sản Huế. Cây nhà lá vườn” - ông đưa tay chỉ cây vả lúc lỉu quả gần đó - “xứ lạ mà sống ngon ơ, cành chật thì sà xuống đất, chen chúc sinh sôi, trái ăn không ngạ (1). Hết hầm giò heo qua chấm ruốc, trộn xúc bánh tráng. Bà nhà tui làm mấy món đó ngon tuyệt”.

“Vườn nhà cháu cũng có một cây. Mạ cháu cũng làm các món vả ngon tuyệt. Bác nhắc làm cháu chảy nước miếng”.

“Rồi tui hái cho bọc. Mà có biết biến chát thành ngon, biến dân dã thành tinh tế không đó? Con gái chừ hư lắm, ăn hàng, ăn tiệm, lười nấu nướng”.

Vợ ông là một bà già Huế giản dị. Giản dị như việc chúng tôi cùng làm bữa trưa với nhau. Tôi ngắt những trái vả mơn mởn, ruột hồng như môi con gái. Ông hái rau răm. Bà trộn. Thêm bát canh tập tàng từ những thứ rau linh tinh lang tang ông trồng trong vườn, đĩa muối sả làm sẵn trong thẩu là đủ bữa cơm Huế nơi đất khách. Ðối với đứa xa nhà, bữa cơm “hương vị mạ” làm tôi quên làm khách. Ông hể hả nhìn bà xới cơm cho tôi ba lần:

“Con ni ăn thiệt tình. Rứa tau thích” - ông đổi xưng hô.

“Mạ cháu nói cháu con gái mà ăn như thúng lủng khu. Lâu rồi mới được bữa cơm ngon dễ sợ!”.

“Cho mi ăn, nhặt mấy tiếng Huế đặc đủ lời. Ăn nữa đi!”.

“Dạ cháu bưa (2) rồi”.

“Bạc trốt (3) mới nghe lại tiếng bưa nghe bà. Ðố bà bưa là chi?”.

“Là như tui bưa ông rứa đó”.

Ông cười hể hả. Bà kể mấy năm trước còn bày nấu bánh tét nhưng cũng chẳng thấy mùi tết vì tụi con cháu chẳng hợp tác. Mùi tết đến từ cùng gói, cùng nấu, cùng thức, cùng ngủ gật bên bếp lửa đỏ. Nhưng chúng bảo bày thêm phiền, ra hội chợ mua khỏe hơn - giọng bà buồn buồn.

“Bên mình chừ cũng rứa thôi. Mỗi thời mỗi khác. Cứ tết đến là mạ cháu ca bài hoài niệm. Nào thời mạ, khoảng giữa tháng Chạp là bếp dậy mùi hương - hương mứt, hương bánh. Giao thừa là khoảnh khắc thiêng liêng, đêm ngát hương trầm. Mồng Một tết hồi hộp coi ai xông đất. Ba ngày tết không được quét nhà, mở tủ, tránh tiền bạc đi ra. Trong nhà leng keng tiếng đổ cá ngựa, tiếng hô bài tới, tiếng nói cười sum họp… Giờ tết quần là áo lượt vi vu ra đường ăn hàng ăn quán, ghé hội chợ, xem phim. Giàu đóng cửa đi du lịch tránh tết. Người ta cũng chẳng mấy ai đến thăm nhau. Cháu thấy ở đây còn mùi tết Việt hơn cả quê nhà vì một số người Việt trong nước Tây hơn cả Tây. Bác tới Cabramatta mà coi. Ngôn ngữ chính là tiếng Việt. Khách hàng chính là người Việt. Họ nô nức mua sắm phả ra mùi tết Việt ở xứ người. Làng văn hóa Việt Nam tái hiện đủ ba miền Bắc - Trung - Nam. Từ ông già Nam bộ đầu quấn khăn rằn quần ống cao ống thấp, ông già Trung bộ khăn đóng áo dài đến cô Bắc kỳ yếm thắm nón quai thao. Rồi hát chèo, hát xẩm, múa lân, đàn bầu, thầy đồ cho chữ, thầy bói xem vận, gánh hàng rong, gánh hàng hoa…”.

 

“Thì báo Úc gọi nơi này là Vietnamatta mà! Nhưng đó là kiểu trình diễn, tái hiện. Làm chi có cảnh vác cành mai vàng chạy bộ mang mùa xuân xuống phố. Nhánh mai vàng cắm trong bàn tay lam lũ chai sạn đứng đợi người mua trong giá lạnh tết đến nao lòng…”.

“Chừ người ta không chơi mai cành mà chơi mai cảnh uốn thế trong chậu bác ạ! Hoa mai lai tạo vài chục cánh là thường. Chỉ tiền là đắt. Mạ cháu kể cắm mai cành có thú riêng. Ðó là những cành mai chặt từ cội mai vàng trước ngõ hay bên sườn núi mang hồn cốt mùa xuân. Giống mai mọc phóng khoáng trong trời đất mang vẻ đẹp tự nhiên, không gò bó. Bông lớn, sắc vàng tươi và thường là năm cánh. Ðược vài đóa sáu cánh càng hên. “Chó chạy vào nhà, mai nở sáu cánh” - mạ cháu nói thế”.

“Cháu cũng là đóa mai sáu cánh. Cháu được nuôi lớn bằng tâm hồn đa cảm đầy hoài niệm của mẹ, tra (4) ơi là tra!” - ông trêu.

“Cháu bị bồ đá vì rứa…Bồ cháu nói cháu về thế kỷ mười chín mà sống”.

“Hơn nhau ở chỗ nhìn thấy sự khác biệt mà trân trọng. Thằng nớ coi thường giá trị của cháu thì mắc chi tiếc. Ðược đá nên mừng mới phải”.

***

Trong cái nóng hừng hực, màu xanh mát từ vườn Huế ở Sydney giúp tôi vơi nỗi đau. Theo chân ông, tôi xuýt xoa theo cây trái Việt chen nhau trong vườn Úc - thanh long, thanh trà, ổi, xoài, mít, mãng cầu, măng cụt… Cả thứ chua chát như bồ quân, gần như chỉ còn trong hoài niệm cũng có mặt. Ông ngắt cho tôi trái ổi:

“Hắn là giống ổi sẻ, nhỏ mà ngon. Cắn vào lớp vỏ ngòn ngọt chan chát là trở về thời thơ ấu…”.

“Vườn cháu có một cây mạ cháu không cho chặt dù bây giờ người ta ăn toàn ổi lê, ổi xá lị, ổi nữ hoàng… Mạ cháu nói vị ngọt chát và thơm của nó các giống ổi kia không có. Cầm theo gói muối ớt ăn luôn trên cây mới tuyệt bác à!”. Thấy tôi ngẩn người ngắm búp sen xanh bằng ngón chân cái đang ngoi lên trong chậu sành hẹp, ông già tự hào khoe:

“Giống Tịnh Ðế đó nghe. Loài sen thanh tao, thuần khiết, cực quý hiếm. Không biết thì gọi là sen dị biến vì hai đóa nở trên một cuống. Người biết thì gọi đó là sen Tịnh Ðế biểu thị điềm lành. Lần về nước vừa rồi, tui gặp may phát hiện trong bó hoa mua dọc đường có đóa sen Tịnh Ðế mới lấy hạt giấu trong ví. Nhưng rồi chỉ nở một đóa như cháu thấy đó. Hy vọng sẽ có ngày thấy hai hoa trên một cuống. Sen Tịnh Ðế còn gọi là sen phu thê, hiện thân cho tình yêu chung thủy, tựa vào nhau, cùng nở, cùng tàn.“Bao giờ cho được thành đôi/ Như sen Tịnh Ðế một chồi hai bông” - ông ngâm nga.

“Mạ cháu gọi hoa sinh đôi. Khi nào về bên nớ, gặp hoa sinh đôi cháu gửi hạt giống qua đường bưu điện cho bác”.

“Ai cho mà gửi. Ðem giống cây Việt qua Úc cũng như cây vượt biên, bị phát hiện là mệt. Tui đem chui. Nhưng dù không phải sen đôi, tui vẫn quý lắm. Từ khi đem hạt qua gieo, hai năm sau mới nở hoa. Ðó là đóa sen Huế đầu tiên ở Sydney” - ông già nâng niu bằng mắt.

“Khó rứa mà sao bác tha đủ loại cây Việt qua đây được?”.

“Thì tha dần mỗi lần về. Mỗi giống hai, ba hạt như cam sành, ổi, thanh trà, khế… Có giống đem một hạt như bàng, phượng đỏ… Có lần ngồi uống cà phê trước nhà người bạn thấy cây mưng buông từng chuỗi hoa đỏ đẹp quá, nảy ý đem qua Úc bèn lấy một khúc bằng chiếc đũa, cắt ra nhiều đoạn ngâm trong ly nước, một tuần sau thấy nó có triệu chứng ra rễ. Tui lấy một khúc dưới cùng bọc trong khăn ẩm bỏ trong ví. Tiếc là không sống… Vườn Huế là mảnh đất bao dung cứ chen nhau mà sống nên tui trồng linh tinh lang tang. Hương chanh, hương bưởi, hương nhu cho bà nhà gội đầu. Gừng, sả, ớt trong góc. Mồng tơi, rau ngót ở hàng rào. Rau thơm, lá lốt, rau dền, rau muống… giành nhau từng tấc đất rồi “hợp tấu” trong bát canh rau tập tàng”.

 

“Mạ cháu nghe kể có vườn Huế ở Sydney ngạc nhiên lắm đây. Lần sau bác về, mời bác ghé nhà cháu. Mạ cháu sẽ cho bác thêm giống”.

“Ừ. “Cố hương là nơi ngươi không thể rời xa. Cố hương là nơi ngươi không thể trở về” (5). Bên cây cỏ thân thuộc, tui thấy gần nhà…”.

“Mình vô bếp đi bác. Cháu nghe mùi mứt gừng thoang thoảng rồi”.

 Mùi tết tỏa ra từ căn bếp sạch đẹp của bà. Trên kệ thẩu nối thẩu - dưa món, dưa kiệu, vả dầm, thịt dầm. Quất vàng óng gối đầu lên nhau. Mứt dừa khoe vẻ đẹp nõn nường trong hình hài cúc trắng…

“Bà ấy lụi cụi từ 20 tết đến chừ. Tui chỉ phụ. Bà ấy bảo không làm không có mùi tết” - ông tự hào khoe.

“Bác khiến cháu nhớ mạ cháu quá. Bên nhà mốt mứt đã tàn lụi, món nhắm lên ngôi mà mạ cháu vẫn làm mứt. Nhờ đó cháu cũng học được đôi chút. Bác để cháu đảo gừng cho” - tôi sà xuống bên chảo mứt gần khô.

“Tết không thể thiếu mứt gừng. Uống chén trà, ăn lát mứt gừng trong tiết trời se lạnh thật tuyệt. Dù bên này tết Việt nóng chảy mỡ, bác vẫn làm để ra vườn nhâm nhi”.

“Mạ cháu còn tìm mua cho được gừng Tuần trồng ở thượng nguồn sông Hương nữa kìa. Gừng Tuần củ nhỏ, lép, khó xắt nhưng mùi thơm, vị cay rất tuyệt. Cháu thích nhất là ăn mứt vét. Tinh túy đọng đáy thau”.

Tôi giúp bà đảo gừng, trải gừng ra nia rồi cạo mứt vét. Chúng tôi, hai già, một trẻ uống trà nóng, nhấm nháp vụn gừng trong vườn. Ngồi trong nắng, dưới bóng cây nhãn mà thấy trong tâm thức mình mưa bụi giăng giăng, lòng se se lạnh. Bên nhà hôm nay 29 tết.

Ông phá im lặng:

“Mai cháu có muốn đến đón giao thừa với bác không?”.

“Ðể hai bác sum họp cùng con cháu. Khoảnh khắc thiêng liêng ấy là của gia đình. Mai sinh viên tụi cháu tham gia tết cộng đồng do đại sứ quán Việt tổ chức. Cháu vẫn còn ham chơi lắm. Sau đó về… chợ hoa tàn” - tôi hạ giọng.

“Chợ hoa tàn ở đâu?” - ông ngạc nhiên.

“Dạ bên mình. Ðó là lúc cận giao thừa, người nghèo đi mua hoa vét. Hoa loại ba, loại bốn. Người loại năm, loại sáu. Giá nào cũng bán. Bán đổ bán tháo để về nhà kịp đón năm mới. Ngắm cảnh ấy thấy bùi ngùi lắm”.

Tôi từ biệt họ với quà tết trong tay - gói mứt, thẩu vả dầm, chậu thạch xương bồ. Xa nguồn, hương cỏ đã phai. Tết, mỗi thời mỗi khác nhưng hề chi, có mùi hương, giá trị vẫn còn trong tâm tưởng. 

Quế Hương
Ảnh: Internet

* Kính tặng thầy Lê Khắc Dòng, người đã mang vườn Huế đến tận Sydney

Ý KIẾN BẠN ĐỌC(1)
 
TIN MỚI

news_is_not_ads=