Gần 11g đêm 11/6, chúng tôi đến địa phận Phan Thiết. Cánh taxi cảnh báo, coi kiếm đường nào không có biểu tình mà đi. Đêm, thành phố biển cửa đóng then cài nhưng không một chút bình yên. Từ xa, dưới hàng đèn, cầu Trần Hưng Đạo đã lố nhố người, vẳng lại tiếng gầm, hú, hét.
|
Nhóm thanh niên tụ tập, ném đá lực lượng CSCĐ trên cầu Trần Hưng Đạo, TP.Phan Thiết |
Phía bên này cầu, đám thanh niên ngoài 20 tuổi thi nhau văng tục, chửi rủa, lăm le gậy gộc; một nhóm khác lôi xềnh xệch mấy bao tải chứa đá, miểng kính chuyền cho đồng bọn “ném chết tụi nó”; một nhóm nữa thì mặc sức rồ ga, nẹt pô, gầm rú… tất cả như thi triển trước đám đông người lớn, trẻ nhỏ hiếu kỳ đang thỏa thuê quay phim, chụp ảnh, cổ vũ.
Phía bên kia cầu, lực lượng cảnh sát vừa duy trì đội hình bảo vệ đường vào các cơ sở công quyền khỏi nhóm người quá khích vừa tìm cách tiếp cận giải tán đám đông. Họ phòng thủ, tự vệ là chính, bước bảo vệ, tấn công chỉ đủ để phân tán.
Nếu tính từ tháng 6/2015, khi Quốc hội khóa XIII ra Nghị quyết số 89 quyết định trình dự án Luật Biểu tình tại kỳ họp thứ 11 diễn ra vào tháng 3/2016 (đáng nhẽ ra phải trình từ kỳ họp thứ 9), thì đến nay, dự luật này đã lùi những 3 lần; kể cả việc đưa ra khỏi chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2018.
Một bộ luật nhằm thực hiện một trong những quyền cơ bản của công dân đã được hiến định, đồng thời là công cụ duy trì và bảo vệ trật tự xã hội của Nhà nước, lại có vẻ luôn trong thế tiến thoái lưỡng nan, trong sự trù trừ, lần khân của các cơ quan có trách nhiệm soạn thảo, phản biện.
Đến độ, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã từng thốt lên tại phiên làm việc ngày 17/2/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII: “Tại sao cứ xin lùi? Chính phủ ý kiến thế nào, không làm được hay không chịu làm? Quốc hội đã quyết định đưa vào chương trình rồi sao Chính phủ cứ lùi mãi?”.
Sự “lùi mãi” ấy, phần nào đã đặt tất cả chúng ta vào cái thế lận đận, khốn khó trong những ngày vừa qua. Nhân dân, trong các đặc quyền của con người, của dân sự, của chính trị, muốn được bày tỏ thái độ trước những vấn đề có liên quan đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia, cộng đồng; lại bị “vàng thau” giữa những đám quá khích, có ý đồ xấu; bị lợi dụng bởi những nhóm kích động, phản động.
Nhà nước, với chức trách và công cụ pháp lý vừa đảm bảo cho công dân thực hiện quyền hiến định của mình vừa bảo vệ, có giới hạn, bãi bỏ, nghiêm cấm, trừng trị các hành động lợi dụng, nhân danh tập hợp, tuần hành, biểu tình để gây mất an ninh quốc gia, an toàn xã hội, kích động phân biệt đối xử, tạo thù địch, bạo lực - theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966.
Nên nhớ, quyền biểu tình là một quyền có giới hạn, có thể bị đình chỉ nên Luật Biểu tình là để định chế hóa các điều kiện nhằm điều chỉnh quyền biểu tình.
|
Các đối tượng kích động đốt phá trụ sở Cảnh sát PCCC - Cứu nạn cứu hộ Phan Rí vào chiều tối 11/6 |
Nhìn lại diễn biến của những ngày qua, ngay cả khi người dân bỏ quên (hay bỏ qua) các kênh bày tỏ ý kiến, thái độ của mình (qua hệ thống mặt trận và các đoàn thể - chính trị, qua các phiên tiếp xúc cử tri, qua các cấp chính quyền địa phương, cơ sở, báo chí…) thì chủ đích và phương thức biểu thị ôn hòa, phi vũ trang lại bị lấn át bởi những hành vi kích động, bạo lực, phá hoại, bạo loạn.
Trong cái mớ hỗn mang ấy, tôi tự hỏi, đâu là “gương mặt nhân dân” đích thực, đâu là bàn tay gậy gộc trá hình? Tâm huyết, ưu tư, bức xúc, ức chế của nhân dân là có thật. Sự lắng nghe, điều chỉnh, kể cả sự nhìn nhận những nguyên do tạo ức chế, bức xúc cho dân của lãnh đạo chính quyền là có thật. Và sự hung hăng, hiếu sát, hả hê giữa những màn ném đá, tung gậy kia cũng có thật. Tôi hoang mang, ngờ vực cái sự thật sau cùng…
Trong Thiên hạ đại thế luận, được chấp bút vào năm Tự Đức 16 (1863-1866), nhà canh tân Nguyễn Trường Tộ đã dốc lòng: “Nước mình trước hết không biết tự giữ thể diện thì người ta mới khinh mình; dân loạn bên trong, rồi kẻ địch mới nhân đó mà vào. Như thế loạn không phải chỉ từ bên ngoài mà ở ngay trong nước vậy”.
Lẽ nào, hơn 150 năm sau…
Trong công trình nghiên cứu về “Khái niệm nghệ thuật quản lý nhà nước ở Việt Nam”, giáo sư, tiến sĩ David G. Marr (Đại học Quốc gia Australia) đã có một nhận định khá sâu sắc: “Trong nhiều cách thức khác nhau, những văn bản này (tức nhiều bộ luật của Việt Nam qua các thời kỳ trung đại) mang nhiều tính tư tưởng chứ không phải là bộ luật dùng để thực thi trong thực tế”.
Phải chăng, từ “tập quán” này mà đôi khi, đứng trước những vấn đề xã hội, cái tâm lý “phép vua thua lệ làng” lại bó chân, trói tay; lâu dần là lực cản để chúng ta chần chừ trong việc hình thành, xây dựng và hoàn thiện một thiết chế pháp luật khoa học, tiến bộ, văn minh nhằm phục vụ cho một xã hội pháp quyền, văn hóa.
Để “phép vua” và “lệ làng” không còn là chuyện hơn thua, đấu chọi mà là tịnh tiến của những nguyên tắc luật pháp, văn hóa hành xử.
Để cái màn rượt đuổi, ném đá nửa đêm nơi thành phố bình yên kia sẽ không còn là cuộc thi triển của một góc nhỏ xã hội vô pháp.
Lê Huyền Ái Mỹ