Hà Nội trở thành “nhân vật” của anh như thế nào? Nhịp sống thị dân đã góp phần ra sao để tạo nên “hồn cốt”, “bản sắc” Hà Nội?
Hà Nội là nơi tôi sinh ra và lớn lên, nên rất dễ hiểu khi đó là khung cảnh đầu tiên tôi đưa vào những trang viết của mình. Tất nhiên là tôi có sự ảnh hưởng từ những cuốn sách hồi nhỏ được đọc, kiểu như Nghìn xưa văn hiến hay các câu chuyện về lịch sử Hà Nội, trong đó thường đề cập đến những dấu tích vàng son của kinh thành Thăng Long. Chúng mở ra một chân trời cho trí tưởng tượng của đứa trẻ là tôi khi ấy. Tôi hay đòi bố chở bằng xe đạp đi đến những nơi đã được đọc các câu chuyện về chúng, để tận mắt nhìn những dấu tích còn lại. Hồi đó gia đình hàng xóm có một tấm bản đồ Hà Nội treo tường, tôi ngày nào cũng mê mải khám phá. Có lẽ sự đơn sơ của thế giới giải trí đã khiến một đứa bé đâm ra yêu “nhân vật” Hà Nội.
Tất nhiên, hồn cốt hay bản sắc một nơi chốn không chỉ có những thứ kiểu như vậy, nó còn là lối sống của một Hà Nội còn giữ những nét sinh hoạt cộng đồng cư dân nơi các phố, ngõ, những khu tập thể cho đến những làng xóm nằm giữa phố. Thậm chí cả những thứ có vẻ đáng sợ với trẻ con khi đó là “xóm liều” hay các “quân khu”, những khu có thành phần cư dân kiểu giang hồ, cũng góp vào bản sắc ấy.
Người ta thường gắn Sài Gòn với những đặc trưng cho vùng đất này, như: hào sảng, bao dung, nghĩa tình.
Vậy, nói về “tính cách” của Hà Nội, có thể dùng những từ nào để diễn tả?
Để tìm ra được “tính cách” của thành phố, cần một quá trình tương tác và cảm nhận. Nói đến đặc tính, luôn có nhiều mặt, cả cái hay và cái dở.
Có lẽ đặc trưng của Hà Nội và cư dân là tính “động trong tĩnh, tĩnh trong động”. “Hà Nội không vội được đâu” song cũng rất tất bật, hối hả lúc cần thiết. Sự đảo chiều tĩnh-động này tương hợp với sự tùy biến, hoặc có khi là sự thích ứng với những đổi thay của thời cuộc. Một nét nữa là tính cộng đồng cao trong cư dân. Ta luôn thấy người sống ở Hà Nội có những mối liên hệ chằng chịt với xung quanh, từ gia đình, hàng xóm, khu phố đến bạn bè, thậm chí những ông hàng nước hay bà bán hoa quả quen cũng ở trong đó.
Tình yêu của người Việt với phở vừa gắn bó vừa da diết thương nhớ.
Có thể ví tình yêu của anh với Hà Nội cũng thế?
Tôi chỉ nghĩ phở vốn gần gũi với người Việt vì nó là một thức quà ăn nhanh, tiện cho sinh hoạt thường nhật, vừa có nước dùng nóng lại có bánh phở từ gạo, cộng với thịt bò cùng hành, ớt… dễ hấp thụ với cái dạ dày chúng ta. Hà Nội hình như cũng thế, là một khối tổ hợp những thứ dễ hấp thụ, dễ hiểu và dễ cảm. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết: “Tim mỗi người là quê nhà nhỏ”. Tôi gắn bó với Hà Nội vì những nguyên cớ rất đời sống, rất tự nhiên, cũng như tất cả chúng ta gắn bó với tổ ấm của mình.
Hơn 20 năm viết về Hà Nội, đã có những chuyển động nào ở thành phố này khiến anh muốn lưu giữ, thậm chí là tiếc nuối?
Tôi khá tiếc cho những ngôi nhà thấp tầng có vườn, có hàng rào, dọc các phố luôn có độ thoáng đãng thời trước. Đó từng là một chỉ dấu cho một thành phố vườn, cũng như một môi trường sống đúng nghĩa tái tạo sức lao động con người. Giờ đây phần nhiều các ngôi nhà đều đã xây lấn ra sát vỉa hè để làm các cửa hàng kinh doanh, dẫn đến các tuyến phố chỉ toàn nhà ống kiểu mới.
Có không ít độc giả yêu mến anh, định danh anh là “nhà văn của Hà Nội” hay “nhà Hà Nội học”.
Sự yêu mến này có làm anh thấy căng thẳng?
Lúc trước đúng là tôi có bận tâm đến những cách định danh như vậy, sau này tôi nghĩ là mình cứ làm thật tốt công việc của mình, trong đó viết về Hà Nội cũng chỉ là một phần. Còn biết bao thứ mình đã biết hết đâu, sợ nhất là tưởng như biết mà hóa ra chẳng biết gì cả! Cố gắng hết mình với điều mình làm, chính là cách cảm ơn sự yêu mến của người đọc. Được đến đâu cũng còn tùy vào cái duyên viết lúc ấy nữa.
Tản văn là một cuộc bày biện của cảm xúc, khảo cứu lại cần đến tính chính xác của lý tính.
Sự chuyển dịch này là lựa chọn có chủ đích hay theo lẽ tự nhiên? Và nó có làm khó anh?
Ngay từ khi viết những tản văn đầu tiên, tôi đã có xu hướng khảo cứu, lại ham viết dài, nên dần dà có nhu cầu triển khai những đề tài dài hơi, cả về mức độ chi tiết câu chuyện lẫn thông điệp ý nghĩa.
Sau cuốn tản văn thứ 5, tôi cảm thấy không hài lòng với lối viết đang có nữa, nhưng chưa biết làm thế nào. Đúng lúc ấy tôi có cơ hội học một chương trình cao học. Nhờ chương trình học, tôi tiếp cận được một số khái niệm truyền thông văn hóa, thay đổi việc đọc tài liệu và nắm được một số phương pháp nghiên cứu. Một ngày đẹp trời, tôi quyết định dùng chính những bài tập hết môn và khóa luận để viết cuốn khảo cứu dài hơi, đánh dấu sự biến đổi có tính trưởng thành của mình. Đấy là cuốn Một thời Hà Nội hát - Tim cũng không ngờ làm nên lời ca (2018).
Viết khảo cứu thường phải tập hợp tài liệu rất mất công, phải suy tư về đề tài dưới những góc nhìn nhiều chiều mang tính khoa học thực chứng. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là viết khảo cứu khó hơn tản văn. Viết ngắn mà súc tích, lại phải đủ duyên giữ chân người đọc, rất khó.
Nhà văn Nguyễn Trương Quý tham gia chương trình Thời gian ơi! Kể chuyện. Ảnh: VTV3
Nhân vật cũ nhưng đề tài mới qua mỗi đầu sách, với anh là điều thú vị hay áp lực? Làm thế nào để thấy mình luôn mới mẻ?
Hồi trước, tôi có cảm tưởng một số đề tài hơi quẩn quanh, nhưng rồi qua việc đọc sách của người khác, tương tác với xung quanh, tôi thấy có quá nhiều điều chưa đụng đến. Tôi luôn có cảm giác mắc nợ rất nhiều đề tài. Tôi hay bị bạn bè mắng là cầu toàn, nhưng tôi luôn thấy không hài lòng hoàn toàn về cái đã làm. “Để thấy mình luôn mới mẻ” có lẽ chính là một loại áp lực vì tự thân người viết luôn có mặc cảm không biết thứ mình đang làm có đem lại gì mới không. Tôi đơn giản là cố gắng lấp đầy những khoảng trống tri thức mình đang tìm kiếm. Cái chưa có sẽ là cái mới với mình.
Tốt nghiệp ngành kiến trúc sư, song dường như anh có rất ít đầu sách viết riêng về kiến trúc Hà Nội, vì sao?
Cuốn sách đầu tiên - Tự nhiên như người Hà Nội chủ yếu viết về kiến trúc. Các cuốn khác nếu để ý sẽ thấy ngoài những bài rải rác đề cập kiến trúc thì hầu hết tôi đều dành việc mô tả bối cảnh đô thị từ những cái vỏ không gian sống để khắc họa môi trường văn hóa của cư dân.
Tôi có độ ba cuốn viết về âm nhạc, nhưng thực tế là viết về sự kiến tạo không gian văn hóa đại chúng của đô thị. Không gian này cũng đồng dạng với hình thái kiến trúc. Một lý do cũng quan trọng là viết về kiến trúc không dễ, ta không chỉ mô tả lại công trình nhưng lại phải chỉ ra được những ý nghĩa xã hội của các công trình hay việc quy hoạch.
Đặc tính của nghề kiến trúc ảnh hưởng đến anh thế nào trong việc lựa chọn đề tài, cách hành văn?
Có lẽ tư duy về cấu trúc và không gian kiến trúc cho tôi có xu hướng mô tả bối cảnh kỹ, nhận diện các đầu mối liên quan đề tài. Tôi cũng bỏ công tìm những bố cục mang tính cân đối và những điểm nhấn phù hợp, đồng thời tôi đề cao việc diễn đạt khúc chiết, có logic. Cũng có khi điều đó khiến tôi viết hơi thiên về lý tính. Để cân bằng lại, tôi cũng viết truyện ngắn và truyện dài với độ linh hoạt trong dòng ý thức hơn, hoặc tản văn gắn với mạch cảm xúc.
Anh chọn hội họa thay vì trở thành kiến trúc, sự chọn lựa này ngoài niềm yêu thích còn có lý do nào khác?
Tôi có cảm hứng với thế giới của hình tượng con người và đồ vật trong sự tác động của ánh sáng. Việc vẽ tranh thỏa mãn nhu cầu tái hiện những gì thu nhận được từ sự quan sát của tôi. Tôi muốn ghi lại cảm xúc ý tại ngôn ngoại của người vẽ, dùng hình ảnh để biểu đạt tâm trạng, đôi khi đạt tới sự thăng hoa qua màu sắc hay hình khối. Nhiều khi viết không ra, vẽ là một giải pháp rất thích hợp để thắng được sức ì trong mình.
Sau “Thời thanh xuân của Tân nhạc ái quốc”, anh đang theo đuổi đề tài nào?
Tôi đang tiếp tục khảo cứu về giai đoạn âm nhạc ở Hà Nội thời chống Mỹ, thông qua chân dung những tiếng hát đã làm nên không gian âm nhạc cổ vũ lòng người giữa thời khắc gian khó. Người Hà Nội thời ấy làm tôi ngạc nhiên vì họ trữ tình hóa được nhiều điều khô khan, mang tính khẩu hiệu. Nhiều thứ ngày nay vẫn còn tồn tại bắt nguồn từ những năm tháng ấy.
Cảm ơn anh. Chúc anh có thêm nhiều sáng tạo mới!