Tình cờ xem lại sách cũ, chúng tôi nhìn thấy một địa danh nghe rất lạ ở TPHCM là vàm Cá Hô. Sự tò mò về địa danh này đã thôi thúc chúng tôi đi đến phường Long Phước, TP Thủ Đức, tìm gặp anh Tư Hội. Gần 50 năm gắn bó với dòng sông Sài Gòn, anh Tư Hội thuộc lòng những địa danh gắn với sông Sài Gòn, sông Đồng Nai. Anh nói vì yêu sông nước nên đến nay anh vẫn chưa “lên bờ” hẳn dù việc đưa đò không đủ nuôi sống gia đình anh.
Mặt trời đứng bóng, con nước vơi dần, anh Tư Hội đưa chúng tôi ra sông. Ngồi trên ghe chừng 20 phút, gần đến ngã ba sông Đồng Nai và sông Tắc, trước mắt chúng tôi xuất hiện một mô đất lớn với hình thù giống như con thủy quái mắc cạn. Anh Tư Hội nói đó là vàm Cá Hô.
Hơn 3 thế kỷ trôi qua kể từ khi cha ông ta “mang gươm đi mở cõi”, vùng đất hoang sơ ngày nào đã trở thành TPHCM - một đô thị sầm uất, nhộn nhịp. Trong hành trình chinh phục thiên nhiên, người Việt đã đặt cho những vùng đất mới nhiều cái tên mang đậm dấu ấn văn hóa dân gian. Vàm Cá Hô là một vùng đất như vậy. Địa danh này gắn liền với dấu ấn của một thời Sài Gòn thương cảng. Đó là những tháng năm sông Sài Gòn, sông Đồng Nai tấp nập thuyền buôn, hàng hóa từ đây tỏa ra khắp xứ Đông Dương và sang cả trời Tây.
Vàm Cá Hô nằm ở ngã ba sông: một nhánh hướng về quận 7, một nhánh hướng về quận 9 (nay là TP Thủ Đức) và một nhánh chảy ra sông Tắc. Chính vì địa thế đặc biệt như vậy nên thuyền buôn ngày xưa từ miền Tây, Đồng Nai lên Sài Gòn thường neo đậu lại khu vực này để trao đổi hàng hóa. Thấy mô đất ở ngã ba sông mang dáng dấp loài cá hô khổng lồ nên người xưa đặt tên là vàm Cá Hô.
Có một cách lý giải khác về tên gọi vàm Cá Hô là xưa kia khu vực này có rất nhiều cá hô - loài “cá vua” khổng lồ. Tên gọi gợi nhắc về một thời sông Sài Gòn, sông Đông Nai trù phú, cá tôm bạc ngàn. Cách đây chừng 10 năm, người ta vẫn còn bắt được cá hô hàng trăm ký ở khu vực này. Nhưng bây giờ, cá hô gần như không còn. Những tay săn cá hô lão luyện như anh Tư Hội cũng chuyển sang nghề chèo đò.
Đứng trên vàm Cá Hô, đưa mắt nhìn về hướng những chiếc xe nối đuôi nhau trên cao tốc TPHCM - Long Thành - Dầu Giây, tôi chợt nghĩ về những con thuyền ngược xuôi trên sông Đồng Nai năm xưa.
Nếu như vàm Cá Hô ở phía đông là một địa danh ấn tượng của Sài Gòn - TPHCM, thì rạch Lồng Đèn ở cửa ngõ phía tây cũng mang trong mình những câu chuyện riêng, góp phần tạo nên bức tranh đa màu sắc trong dặm dài trăm năm của thành phố.
Rạch Lồng Đèn (phường 7, quận 8) như một chứng nhân lịch sử của vùng đất Sài Gòn - TPHCM. Ngày xưa, ngã ba sông Cần Giuộc và kênh Đôi là một điểm giao thương sầm uất nhưng cũng đầy nguy hiểm. Đêm khuya, để báo hiệu cho tàu thuyền từ miền Tây ghé đến, người dân đã treo một chiếc lồng đèn lớn ở ngã ba sông. Ánh đèn lung linh tỏa sáng, trở thành chỉ dấu cho cả một vùng sông nước. Dần dần, địa danh rạch Lồng Đèn ra đời, gắn liền với hình ảnh chiếc đèn lồng thuở ấy.
Hiện tuyến sông Cần Giuộc - kênh Đôi vẫn là trục chính để các thương hồ miền Tây vận chuyển hàng hóa đến TPHCM. Ngày ngày, trên những chuyến ghe xuôi ngược, tiếng cười nói rôm rả của các thương hồ hòa vào tiếng sóng vỗ. Họ kể nhau nghe về cuộc sống thường ngày, và cả những hiểm nguy rình rập trên sông.
Hàng trăm năm qua, dòng sông và con người đã thay đổi nhiều. Chiếc lồng đèn một thời lung linh nay chỉ còn là ký ức. Giữa nhịp sống hối hả của thành phố, khu vực rạch Lồng Đèn vẫn mang nét bình yên của làng quê. Người dân nơi đây đa phần xuất thân từ miền Tây sông nước, mưu sinh bằng nghề truyền thống như trồng rau, nuôi cá và vẫn giữ thói quen đi lại bằng ghe.
Thạc sĩ Lê Đức Đắc - nhà nghiên cứu văn hóa Nam Bộ - cho biết, Sài Gòn thương cảng đã in dấu đậm nét trong lịch sử 150 năm, kể từ đô đốc Page cho mở cảng Sài Gòn để giao thương quốc tế. Sài Gòn là giao điểm của 2 vùng đất trù phú (đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ) nên trở thành cửa ngõ giao thương quan trọng của xứ Đông Dương. Qua hàng trăm năm, vùng đất này vẫn còn nhiều địa danh quen thuộc như: bến Nhà Rồng, Ba Son, Chương Dương, Lò Gốm, Mễ Cốc, Vân Đồn…, và ngay cả những khu vực ít được biết đến như: vàm Cá Hô, rạch Lồng Đèn, rạch Ong, hố Bần...
“Xuân này, mời anh chị về quận 8 dự lễ Kỳ yên tại cù lao Bà Tàng” - lời mời của cô bạn học - hiện là cán bộ đoàn ở quận 8, TPHCM - khiến chúng tôi tò mò, háo hức. Tò mò vì sống ở Sài Gòn gần 20 năm nhưng tôi chưa bao giờ nghe về cù lao Bà Tàng và lễ Kỳ yên vốn chỉ còn được lưu giữ ở các vùng quê.
Xuôi dòng kênh Đôi, chúng tôi được thưởng ngoạn trọn vẹn vẻ đẹp của cù lao hiếm hoi giữa phố thị. Cù lao Bà Tàng - hay còn gọi là cù lao Kênh Đôi - nằm ở phường 7, quận 8. Cù lao như một trái tim xanh được bao bọc bởi mênh mông sông nước. Ở cù lao có đình Bình Đông đã hơn 150 năm tuổi.
Hằng năm, lễ Kỳ yên diễn ra ở đình Bình Đông vào ngày 12 và 13/2 (âm lịch). Người dân khắp nơi tập trung về đây để chiêm bái, dự lễ Thỉnh sanh và nghe hát bội. Đình Bình Đông nổi tiếng linh thiêng, xưa kia chỉ là ngôi nhà lá nhỏ nằm trên cù lao. Qua thời gian, ngôi đình này nhiều lần được nâng cấp, trùng tu trở nên kiên cố, uy nghi hơn.
Cù lao Bà Tàng và đình Bình Đông là nơi trải qua nhiều dấu mốc lịch sử quan trọng của TPHCM. Theo tài liệu ghi chép lại, từ năm 1925, đình Bình Đông là cơ sở hội họp của Công hội đỏ - tổ chức công hội đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam - do đồng chí Tôn Đức Thắng thành lập năm 1920. Giai đoạn 1925-1928, tại đây, đồng chí Tôn Đức Thắng đã nhiều lần dự họp và tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, lòng yêu nước cho công nhân. Các mật thư của đồng chí Nguyễn Ái Quốc được chuyển từ nước ngoài về cũng như sách báo tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin đều được cất giấu cẩn thận và an toàn tại chánh điện của đình.
Do vị trí cù lao Kênh Đôi khá biệt lập nên vào thời kỳ chống Mỹ, đây là nơi liên lạc, chuyển vũ khí vào nội thành và cũng là nơi bộ đội miền Nam đặt súng bắn vào Tòa hành chính quận 7 của chế độ cũ năm 1968. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, đình Bình Đông bị bom đánh sập một phần nhà vỏ ca, chánh điện và nhà nghĩa từ. Mãi đến năm 1991, đình được xây dựng lại.
Cù lao Bà Tàng, đình Bình Đông - những địa danh lạ mà quen - vẫn lặng lẽ tồn tại chứng kiến những sự đổi thay, không ngừng phát triển của thành phố. Đó là nơi lưu giữ văn hóa trăm năm của Sài Gòn - TPHCM, là nơi để các thế hệ sau này tìm về với sự tri ân những bậc tiền nhân đã đấu tranh và ngã xuống cho mảnh đất này được thanh bình, vươn mình bứt phá.
Rời cù lao Bà Tàng, chúng tôi tìm đến ngọn núi duy nhất của TPHCM ở đảo Thiềng Liềng (huyện Cần Giờ) - núi Giồng Chùa. Vì núi này nằm tách biệt với đất liền nên muốn đến đây phải di chuyển bằng đường sông. Mỗi ngày chỉ buổi sáng sớm và chiều khi nước lớn mới có thể đến Giồng Chùa.
Người đồng hành với chuyến đi này là tiến sĩ Dương Đức Minh - Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển du lịch TPHCM. Nhờ có “hướng dẫn viên” đặc biệt nên chúng tôi được nghe những truyền thuyết và giai thoại về hòn núi độc đáo này.
Núi Giồng Chùa chỉ cao khoảng 13,75m nhưng là kết quả của hàng triệu năm hình thành và biến đổi địa chất. 1.375 cũng là số cây dừa được người dân trồng xung quanh núi. Đây không chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên mà còn ẩn chứa ý nghĩa sâu xa trong văn hóa địa phương, tạo nên một vòng xanh bao bọc lấy Giồng Chùa. Dưới chân núi là hệ sinh thái rừng ngập mặn với cây đước, bần, mắm đóng vai trò như bộ lọc tự nhiên, cung cấp không khí tươi, trong lành cho cả vùng. Thế nên, bất kỳ ai đặt chân đến đây đều cảm thấy dễ chịu khi đắm mình trong bầu không khí thoáng đãng của đất trời.
Dừng chân tại miếu Ngũ hành trên núi, chúng tôi có cơ hội chiêm ngưỡng nơi thờ phụng linh thiêng trong tâm thức diêm dân. Họ tin rằng các vị thần linh sẽ phù hộ mùa vụ bội thu, sóng yên biển lặng, giúp nghề làm muối tồn tại và phát triển.
Chỉ tay về phía một khe đá, tiến sĩ Dương Đức Minh nói rằng dấu tích được cho là vết chân tiên đã trở thành một nét văn hóa trong đời sống tâm linh của người dân nơi đây. Tích xưa kể rằng, có một bà tiên gánh đá, giữa chừng gãy gánh khiến một nửa rơi xuống tạo thành ngọn Giồng Chùa, nửa còn lại nằm ở tận Vũng Tàu. Người dân tin rằng nếu ướm chân vào vết chân tiên sẽ có được phước lành, sức khỏe và bình an. Đây cũng là một trong những lý giải mang đậm màu sắc dân gian về nguồn gốc ngọn núi Giồng Chùa.
Theo các nhà khoa học, thành phần chính tạo nên núi Giồng Chùa là đá andesit - một loại đá mắc ma phun trào, minh chứng cho quá trình vận động hình thành địa chất, địa mạo ở khu vực Đông Nam Bộ. Điều thú vị là người dân địa phương lại có một cách lý giải khác về sự hình thành của ngọn núi. Họ tin rằng, ngọn núi này không ngừng cao lớn bởi loại đá có khả năng nở to, tượng trưng cho sự sinh sôi và phồn thịnh. Quả thật, việc phát hiện những hòn đá gần miếu thờ có khả năng nổi trên mặt nước càng củng cố thêm niềm tin, trở thành động lực để họ bám đất, bám biển và giữ nghề muối nơi ấp đảo hoang vắng.
Nằm nép mình giữa cánh đồng muối trắng xóa dưới chân núi là ngôi nhà của ông Bùi Văn Đạo - 65 tuổi, 1 trong 2 hộ dân cuối cùng còn giữ nghề muối truyền thống ở Giồng Chùa. Gia đình ông đã làm muối từ thời ông cố ông rồi truyền qua 3 đời, nên làng muối nơi đây ít nhất cũng trên dưới 100 năm tuổi.
Đến với ấp đảo Thiềng Liềng, những câu chuyện từ người dân địa phương như mở ra một không gian sống động về thời kỳ khai khẩn xưa kia. Chúng tôi ngồi dưới mái hiên một ngôi nhà nhỏ, nghe các bậc cao niên kể về thuở chiến tranh loạn lạc, cha ông họ - những lưu dân miền Tây sông nước - đã đặt chân lên vùng đất này. Có lúc, những con người ấy âm thầm hỗ trợ chiến sĩ đặc công Trung đoàn 10 Rừng Sác, dẫn đường trên sông Lòng Tàu, góp sức cho những trận đánh oai hùng làm rung chuyển chế độ cầm quyền. Sau hòa bình, nhiều người chọn ở lại, không phải vì vùng đất này dễ sống, mà bởi họ đã gắn bó máu thịt với đất, với biển, với rừng.