Mở cánh cửa phòng bảo quản tài liệu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, bước vào trong, một mùi ẩm nồng của giấy báo cũ phả ra, xộc thẳng lên mũi. Cái lạnh 17-18 độ C nơi đây khiến vị khách lần đầu đến như tôi hơi ngỡ ngàng. Dạo quanh căn phòng sáng choang với từng kệ tài liệu được sắp xếp gọn gàng và đánh số, tôi cảm tưởng như đang ở trong một phòng thí nghiệm nào đó thường thấy trên phim.
“Gần như toàn bộ tài liệu gốc về quá trình hình thành vùng đất Sài Gòn - TPHCM đều nằm ở đây, cực kỳ giá trị” - tiếng chị Cù Thị Dung - Trưởng phòng Phát huy giá trị tài liệu lưu trữ, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II - vang lên. Từ lời giới thiệu ngắn gọn của chị, những tài liệu trước mắt tôi như ánh lên vẻ đẹp của thời gian, trong đó là những thông tin vô cùng hữu ích, có thể giúp tìm hiểu, nghiên cứu về một vùng đất với lịch sử hàng trăm năm. Nói một cách ví von, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II như đang lưu giữ “mã gen” của Sài Gòn - TPHCM.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia II được thành lập vào ngày 29/11/1976. Trong hơn 20 năm tiếp theo, đơn vị đã tiến hành thu thập tài liệu từ các cơ quan chính quyền, cơ sở trên địa bàn thành phố. Bên cạnh đó là sắp xếp, phân loại, thống kê theo từng danh mục nội dung.
Gần nửa thế kỷ qua, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II là nơi lui tới của biết bao thế hệ trí thức, nhà nghiên cứu, học giả trong nước và quốc tế. Trong cuộc trò chuyện với chúng tôi, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư (105 tuổi) cho biết bộ sách Gia Định - Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh: Dặm dài lịch sử (1698-2020) và nhiều công trình khác của ông ra đời nhờ nghiên cứu nguồn tư liệu quý tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia II. Nhà nghiên cứu đã gắn bó với nơi này hơn 20 năm. Theo lời kể của nhân viên tại trung tâm, trước đó, mỗi ngày, cụ Tư đều đến đây tra cứu, tìm hiểu.
Chị Cù Thị Dung đưa tôi khám phá một vòng nơi chị làm việc từ năm 1999 đến nay. 25 năm gắn bó với đơn vị, chị xem nơi đây như gia đình thứ hai của mình. Vừa tốt nghiệp, chị Dung vào làm tại trung tâm với thế mạnh về tiếng Pháp. Ban đầu, chị cảm thấy mông lung khi được giao cho “núi” tài liệu về thời Pháp thuộc. Tuy nhiên, ngày qua ngày tiếp cận từng trang tài liệu, dần tích lũy kiến thức về đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn và xứ Nam Bộ xưa, chị như bị cuốn vào hành trình tìm về nguồn cội.
Chị Dung chia sẻ: “Tại trung tâm, tư liệu về đời sống của một vùng đất qua hàng trăm năm rất nhiều, không thể kể hết. Thế nhưng, khi đi vào những vấn đề nhỏ hơn, như việc tìm thấy giấy báo tử, khiến tôi thực sự xúc động. Tôi biết, đối với một gia đình đang tìm kiếm người thân bị mất liên lạc hoặc mất tích trong chiến tranh thì tấm giấy này có ý nghĩa rất quan trọng, như một tia sáng cuối đường hầm. Tôi muốn nói đến tính nhân đạo của tư liệu - một khái niệm mà chắc hẳn chỉ những nhân viên lưu trữ mới hiểu được”.
Cuốn Đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn trước năm 1945 qua tài liệu lưu trữ do chị biên soạn đã nhận được giải thưởng khoa học Trần Văn Giàu. Hiện 2 tác phẩm khác chuẩn bị xuất bản và cuốn thứ tư đang trong giai đoạn hoàn thiện bản thảo.
Trong nhiều chia sẻ về nghề nghiệp từ các nhân viên tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, tôi ấn tượng 3 điều: “lặng thầm”, “nhàn” và “mê”. “Lặng thầm” là bởi đối tượng công việc chính của họ là tư liệu. Từ việc thu thập, chỉnh lý, sắp xếp cho đến bảo quản, số hóa, phục chế đều cần sự tập trung, tỉ mỉ, ít có sự trao đổi, ngoại trừ bộ phận khai thác tài liệu, phục vụ độc giả. Công việc được lặp đi lặp lại. Định mức công việc được phân riêng cho từng năm, từng cá nhân nên có sự ổn định và phần nào “nhàn”. “Mê” ở đây ý nói mỗi người vào trung tâm làm việc đều được vun bồi sự hiểu biết, có cơ hội tiếp cận tài liệu gốc nên thỏa sự tò mò và đam mê khi nào không hay.
Chị Phan Thị Thùy Dung - làm việc ở bộ phận tu bổ, bảo quản tại kho - cho biết: “Công việc tuy nhàn nhưng không phải không có áp lực. Nhiều hôm tư liệu bị rách, nát cần phải phục chế, chúng tôi 4-5 người làm liên tục vài ngày mới xong. Khó nhất là những bản đồ vẽ con đường, ngôi nhà có nhiều chi tiết giống nhau. Nếu sơ sót đặt mảnh ghép không đúng vị trí thì phải chờ hôm sau cho keo khô mới có thể sửa lại”.
14 năm qua, đặc biệt trong thời gian đầu mới vô nghề, nhiều lần chị Thùy Dung nghĩ đến việc từ bỏ vì cứ lặng lẽ trong kho, làm đi làm lại một công việc. Nhưng lâu dần chị em đồng nghiệp thương nhau, quý mến nhau nên chị vẫn gắn bó. “Lúc trẻ có thể không thích nhưng có tuổi rồi lại thấy phù hợp, như một thói quen. Nhiều lúc tôi nghĩ nghề lưu trữ như công việc chăm sóc gia đình. Điều lớn nhất níu giữ nhiều người ở lại có lẽ là họ đã thấy được giá trị từ công việc thầm lặng mà mình đang làm” - chị Thùy Dung bày tỏ.
Những ngày này, tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, một không khí khẩn trương, nhộn nhịp diễn ra ở khắp các phòng, ban. Hàng trăm lao động trẻ được mời về để thực hiện dự án chuyển đổi số của đơn vị. Công tác số hóa đã được trung tâm thực hiện từng bước từ nhiều năm nay.
Ông Đặng Thanh Tùng - Cục trưởng Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, thành viên đóng góp, xây dựng Luật Lưu trữ (sửa đổi) - cho biết ngành lưu trữ đang đứng trước những thách thức rất lớn. Ông dự đoán trong 5 đến 7 năm tới, ngành lưu trữ sẽ xảy ra những biến động nhân sự khi yêu cầu về số hóa được đẩy mạnh.
“Luật Lưu trữ (sửa đổi) khẳng định chuyện gìn giữ là để phục vụ, phát huy giá trị tài liệu. Theo tôi, đây là sự khác biệt đáng kể nhất và cũng là bước tiến so với Luật Lưu trữ trước đây. Từ mục tiêu này, công việc số hóa tài liệu bắt buộc phải diễn ra. Trước thách thức mới, nhân sự của ngành đòi hỏi phải chuẩn bị về tư duy, hành động, rèn luyện năng lực nghề nghiệp để đối diện và vượt qua” - ông Đặng Thanh Tùng nhận định.
Hiện tại, lực lượng nhân sự của Trung tâm Lưu trữ quốc gia II vẫn trải đều các độ tuổi, không quá trẻ. Do đó, trước những thách thức mới của thời đại, trong tương lai gần, để người lao động kịp thời thích ứng và tiếp tục cống hiến, trung tâm phải có bước chuyển linh hoạt, nhanh chóng. Công tác truyền thông cũng cần được quan tâm hơn để cho thấy sự chủ động trong việc phục vụ người dân vì mục tiêu phát huy giá trị tài liệu. Ông Đặng Thanh Tùng cho rằng người Việt ít có thói quen tìm đến thư viện, trung tâm lưu trữ. Theo thống kê, du khách quốc tế chiếm phần lớn trong tổng số bạn đọc đến Trung tâm Lưu trữ quốc gia II để tìm tài liệu, nghiên cứu. Theo ông, để gỡ “nút thắt” này, ngành lưu trữ cần sự chung tay của ngành giáo dục, văn hóa để cùng nhau lan tỏa những giá trị quý giá của tư liệu chính thống.
Giữa những bộn bề của ngành, khi đến Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, tôi vẫn cảm nhận được cái tình, sự trao truyền và kết nối ở các thế hệ. Tôi chợt nhớ hình ảnh vào một sáng thứ Bảy, trong không gian nhỏ tại trung tâm, 4 nhân viên thuộc các thế hệ cùng nhau tu bổ một tấm bản đồ khổ lớn về hệ thống cấp nước của Sài Gòn - TPHCM.
Đặt nhẹ tay lên tấm bản đồ trăm năm, chị Nguyễn Thị Thanh Thủy nói tấm bản đồ này vẫn còn tốt so với những tài liệu mà chị từng tiếp xúc trong 26 năm qua. Ông Võ Quang Sơn - nhân viên kỳ cựu nhất tại trung tâm - tận tình hướng dẫn để các đồng nghiệp chọn đúng chất liệu giấy và thực hiện kỹ thuật bồi nền. Hơn 40 năm trước, ông Sơn là một trong những nhân viên lưu trữ đầu tiên tham gia tập huấn trực tiếp về bồi nền, phục chế. “Tôi được cử đi học lớp của một thầy người Nhật. Về sau, tôi học hỏi thêm và tự nghĩ ra nhiều cách làm để vừa phù hợp kinh phí của đơn vị nhưng vẫn đảm bảo chất lượng công việc. Nghề này không khó nhưng đòi hỏi sự cẩn thận, tỉ mỉ” - ông Sơn cho biết. Đồng nghiệp của ông Sơn ví ông như một điểm tựa niềm tin trong công việc vì sự hiểu biết, kinh nghiệm và sẵn sàng chia sẻ.
Giữa phố xá nhộn nhịp, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II vẫn hiện diện âm thầm, bình lặng dõi theo sự phát triển của thành phố. Vẻ trầm mặc ấy góp phần tô điểm thêm cho những giá trị của tư liệu mà trung tâm đang gìn giữ. Nhờ sự nỗ lực của biết bao thế hệ những người làm lưu trữ, “mã gen” của Sài Gòn - TPHCM vẫn vẹn nguyên ở đó để mọi người có cơ hội tìm hiểu, nghiên cứu, vun đắp thêm tình yêu thương và sự gắn bó với mảnh đất này.