Làng cổ yên bình bên dòng Ô Lâu

16/11/2024 - 19:11

PNO - Làng cổ Phước Tích thuộc thôn Phong Phú, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 40km.

Hôm ấy, chúng tôi đi bằng xe máy theo Quốc lộ 1A. Trên đường đi, thấy trên tấm bảng chỉ đường ghi: “Sịa - 10km”, tôi rẽ vào bởi cái tên làng gợi trí tò mò.

Một bến sông ở làng cổ Phước Tích
Một bến sông ở làng cổ Phước Tích

“Chỉ là cái tên chứ đâu khác gì những làng quê khác nhưng điều thú vị là biết thêm một nơi mà nếu không có tấm bảng chỉ đường thì nó không nằm trong danh sách các điểm đến lần này” - bạn tôi kết luận như vậy sau khi chúng tôi ghé đình làng Khuông Phò và đình Thủ Lễ. 2 ngôi đình tương đối giống nhau về lối kiến trúc chung của vùng Thừa Thiên - Huế: 4 trụ biểu dẫn vào đình, bình phong, sân đình, ngôi đình nằm cuối sân, kiểu nhà rường 5 gian 2 chái…

Nhìn trên bản đồ, làng cổ Phước Tích được bao bọc 3 phía bởi dòng sông Ô Lâu là con sông làm ranh giới phân chia tỉnh Thừa Thiên - Huế và Quảng Trị.

Trên con đường từ Mỹ Chánh vào Phước Tích, một bên là sông Ô Lâu bình dị, hiền hòa, tôi nhìn qua bên kia sông lại thêm ao ước được khám phá bên ấy. Chúng tôi vào làng cổ Phước Tích từ “lối sau” - nghĩa là phía cuối làng. Một người vui vẻ hướng dẫn chúng tôi: “Các chị cứ đi theo con đường lát gạch này là vào làng, khi nào không còn lối lát gạch nữa là hết làng”.

Ông Lê Trọng Diễn (gần 80 tuổi, chủ nhân một ngôi nhà rường) nói với chúng tôi rằng cái “cổ” của làng Phước Tích khác với cái “cổ ” của làng cổ Đường Lâm ở miền Bắc. Trước hết, làng cổ Phước Tích còn bao hàm ý nghĩa về cảnh quan môi trường, một làng không có ruộng nên không bị ô nhiễm, bao bọc quanh làng là sông và toàn bộ nhà đều có vườn cây lá xanh dày nên quanh năm mát mẻ. Đặc biệt, trước nhà nào cũng có hàng chè tàu, cấu trúc nhà giống nhau và cái “cổ” đậm nét là quần thể nhà rường. Một làng nhỏ như Phước Tích chỉ 114 ngôi nhà mà có đến 40 nhà rường tuổi thọ hơn trăm năm, trong đó 26 nhà rường đã được trùng tu nhưng vẫn giữ nguyên bản nhà rường truyền thống. Cái “cổ” còn bởi sự yên bình, sạch sẽ hiếm thấy.

Bên trong một ngôi nhà ở làng cổ Phước Tích
Bên trong một ngôi nhà ở làng cổ Phước Tích

Ông Diễn hóm hỉnh: “Còn bởi đây là làng của người già, không có người trẻ. Như gia đình tôi, con cái cũng làm việc hết ở Huế, nhà chỉ còn ông bà già. Làng vắng vẻ, ít người lắm. Tôi đố các cô đi mà gặp được 2 người trở lên. Dân số làng bây giờ còn khoảng 300 người và chỉ toàn người già. Diện tích làng khoảng 50ha, nhà vườn nào cũng rộng hơn ngàn mét vuông”.

Chỉ tay vào hàng cột trong nhà, ông nói cột làm từ gỗ mít. Đây là loại gỗ làm nhà tốt vì chịu lực đứng. Gia đình ông Diễn đã ở đây đến đời ông là đời thứ 15, chỉ chuyên nghề làm gốm. Đưa chúng tôi vào gian nhà trưng bày gốm, ông giải thích: “Bởi làng Phước Tích không có ruộng nên phải lấy đất sét từ nơi khác về làm gốm. Tùy theo chất đất mà gốm ra tốt hay xấu. Chúng tôi lấy đất nguồn ở Quảng Trị, cách làng 12 cây số. 600 năm nay, chúng tôi vẫn lấy đất ở đó. Gốm Phước Tích nổi tiếng về chất liệu và màu sắc, mỗi sản phẩm mỗi màu. Bây giờ người ta chuyển qua công nghệ mới nhưng gia đình tôi vẫn làm gốm theo phương pháp cổ truyền đốt bằng củi, làm bằng tay…”.

Bạn tôi - một “tín đồ” của gốm - say mê ngắm và tấm tắc trước tủ kính xếp hàng dài những sản phẩm gốm…

Đình làng Thủ Lễ ở Sịa
Đình làng Thủ Lễ ở Sịa

Rời nhà ông Diễn, chúng tôi đi theo con đường lát gạch Bát Tràng. Quả đúng là một môi trường thật xanh bởi cây cối phủ bóng mát trên đường đi, lối vào vườn…

Theo chỉ dẫn của ông Diễn, chúng tôi ghé miếu Cây Thị. Điều thú vị là cây thị có chu vi khá lớn, khoảng 6 vòng tay ôm của người lớn nhưng rỗng ruột từ gốc lên đến ngọn (khoảng hơn 10m). Tán lá cây thị che mát một khuôn viên rộng, không có bóng nắng lọt qua. Ông Diễn kể rằng, thời chiến tranh, người ta vô cây thị trốn bom đạn. Các nhà khoa học nhận định, miếu Cây Thị thờ mẫu Ponagar đã được Việt hóa trong quá trình chung sống và kế thừa dòng tín ngưỡng Chăm. Cái yên bình, cổ kính của làng Phước Tích được khẳng định qua bao thế kỷ.

Theo con đường lát gạch, chúng tôi đi một vòng hết làng. Dòng sông Ô Lâu vòng quanh mát mẻ, êm đềm như cổ tích với 12 bến nước trông thật thanh bình. Một ngôi làng khá lặng lẽ, cách biệt đời sống đô thị ồn ào.

Miếu Cây Thị
Miếu Cây Thị

Những miếu thờ (miếu bà Liễu Hạnh, miếu Đôi, miếu Ngũ Hành, miếu Cô Hồn), chùa Phước Bửu, những nhà thờ họ… nằm trong vườn cây cối um tùm xanh mát, những hàng cau thẳng tắp, nhà cổ có cấu trúc giống nhau. Lò gốm, gian trưng bày gốm lặng lẽ phục vụ khách đến thăm…

Và đúng như lời ông Diễn, đi khắp làng hôm ấy chúng tôi chỉ gặp 1, 2 người. Tôi bị cuốn hút bởi lối vào lát gạch rêu phong của một ngôi nhà cổ có 2 hàng cau rất đẹp. Có bàn tay gầy mở hé cánh cửa sổ nhỏ bên hông nhà, chỉ nghe giọng nói mà không thấy người, trông thật liêu trai như trong một bộ phim xưa.

Ngược dòng lịch sử, theo Wikipedia:

“Năm 1306, vua Trần gả công chúa Huyền Trân cho vua Chăm là Chế Mân. Vua Chăm đã dâng 2 châu Ô và Lý (Rí) cho Đại Việt làm quà sính lễ. Năm 1307, vua Trần Anh Tông cho đổi tên 2 châu này thành Thuận Châu (phía Nam Quảng Trị) và Hóa Châu (Thừa Thiên - Huế ngày nay), đồng thời có chính sách di dân từ phương Bắc vào, ổn định dân bản địa. Từ đó, vùng đất Thuận Hóa trở thành vùng biên cương phía nam của Đại Việt.

Đình làng Khuông Phò ở Sịa
Đình làng Khuông Phò ở Sịa

Năm 1470, vua Lê Thánh Tông thân chinh đem quân chinh phạt Chăm Pa thắng lợi, những đợt di dân mới lại tiếp tục diễn ra. Theo các tư liệu, làng Phước Tích được thành lập vào những năm đầu trong đợt di dân này vào xứ Thuận Hóa. Gia phả của họ Hoàng, dòng họ khai canh ở làng Phước Tích có ghi: “… Đến đời Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và thứ hai (1470-1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cảm Quyết, Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi Chiêm Thành. Sau khi chiến thắng trở về, ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiếm địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương. Sau khi xem bói, biết được chỗ đất tốt tươi, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng…”.

Ngài khai canh Hoàng Minh Hùng là người làng Cảm Quyết, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ngài vốn là võ quan, theo vua Lê Thánh Tông tham gia chiến dịch Bình Chiêm năm 1470. Sau đại thắng, ngài được ban chức Đô chỉ huy sứ vệ Cẩm y, quản trị phó tướng, phong tước Hùng Minh Hầu. Theo chỉ dụ của vua, ngài ở lại, chiêu mộ được một số đồng hương vào vùng đất này khai hoang lập ấp…

Sách Ô Châu cận lục do tiến sĩ Dương Văn An viết năm 1553 đã ghi lại danh mục 180 làng thuộc huyện Kim Trà, Đan Điền và Tư Vinh của Hóa châu lúc bấy giờ, trong đó có tên làng Cảm Quyết, nằm trong số 60 làng của huyện Kim Trà. Vậy có thể khẳng định, làng Phước Tích ra đời khoảng cuối thế kỷ XV”.

Đào Thị Thanh Tuyền

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI