|
Những năm tháng êm đềm của tác giả cùng anh em bên cha và mẹ |
Ba mẹ tôi gặp nhau tại vùng kháng chiến thời “chín năm”. Bấy giờ, từ xã Đại An, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, gia đình bên ngoại tôi tản cư về vùng Cây Sanh (nay thuộc thành phố Tam Kỳ, Quảng Nam). Mẹ tôi cùng các dì mở quán tạp hóa. Bà con trong vùng đặt tên quán là “quán Ba Cô”, ấy là do người ta thấy mẹ tôi, dì tôi xinh đẹp, duyên dáng nết na, lại chăm chỉ làm ăn.
Trong vùng kháng chiến lúc ấy có đơn vị quân y đóng quân, ba tôi ở đó. Thỉnh thoảng, lúc đi công tác, ông cùng đồng đội tạt vào quán nghỉ chân, uống nước và bông đùa với các cô chủ quán. Tuổi trẻ mà. Tôi không biết ba tôi đã cưa cẩm, “thả thính” mẹ thế nào, để sau đó ông bà “phải lòng” nhau. Và, như mọi chuyện tình kết thúc có hậu, lễ cưới được tổ chức.
Sau khi “hòa bình lập lại”, ông bà ngoại tôi hồi cư về Đà Nẵng. Mẹ tôi, theo lẽ thường sẽ được ba tôi dẫn về quê “trình diện” dòng tộc nhà chồng? Không thể! Đất nước chia cắt. Làm sao có thể về quê chồng ở xa tít mãi ngoài làng Kỳ Vỹ, huyện Gia Khánh, tỉnh Nam Hà (nay huyện Gia Khánh thuộc tỉnh Ninh Bình).
Vì lẽ đó, hình ảnh về quê chồng hoàn toàn mù mịt trong tâm tưởng mẹ tôi, không một dấu vết. Nếu có chăng, chỉ là từ giọng nói của chồng. Chúng tôi lớn lên, khái niệm về quê nội cũng mờ mờ sương khói. Không rõ nét. Không một kỷ niệm. Tuổi thơ tôi, những yêu thương tươi thắm nhất ở quê ngoại, cụ thể vẫn là không gian của một ngôi nhà có nhiều cây xanh, tiếng chim ríu rít ở Đà Nẵng, nơi ông bà ngoại tôi đã sống. Ngay cả quê ngoại cụ thể ra sao, thuở ấy, tôi cũng chưa đặt chân đến. Làm sao có thể về đến nơi chôn nhau cắt rốn của mẹ trong hoàn cảnh chiến tranh loạn lạc?
Những ai sống trong trường hợp như thế này, ắt sẽ có suy nghĩ đơn giản mà sâu sắc rằng, quê nội/quê ngoại chính là nơi mình đã chung sống với cha mẹ suốt năm tháng hoa niên rồi trưởng thành. Suy nghĩ này, khiến con người ta không cảm thấy lạc lõng trong một thế giới mà ai cũng có nơi cụ thể để tìm về. Và bây giờ, tôi tìm về trên hành trình vạn dặm vẫn là nơi còn đó dấu vết của ba mẹ mình, dẫu một đời người, một kiếp nhân sinh: Trăm năm còn có gì đâu/ Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì (Nguyễn Gia Thiều).
Nói thì nói thế. Chắc chắn, trong đời, ai cũng mơ ước được một lần, đôi lần được đặt chân đến vùng đất sinh ra cha mình, mẹ mình để tận mắt nhìn lấy vòm trời, bờ tre, ngọn cỏ, con sông, dòng suối, hít thở trong không gian diệu vợi ấy… Nơi ấy, không chỉ địa danh hành chính, còn là một phần máu thịt, ký ức của cha mẹ.
Tôi nhớ những năm tháng êm đềm ấu thơ, thỉnh thoảng mẹ tôi vui vẻ nói trong bữa cơm: “Bao giờ hòa bình, ba thằng Lương dẫn mấy đứa về thăm quê nội hè?”.
Bao giờ? Không ai có thể biết bao giờ? Nghe thế, ba tôi tỏ ra tư lự đăm chiêu. Hẳn trong tâm trí của ông, ngay khoảnh khắc ấy lại nhớ về câu thơ Nguyễn Bính: Quê nhà xa lắc, xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay.
Do đó, ngay sau ngày thống nhất, có lẽ ngày ba mẹ tôi vui nhất là lúc nhận được lá thư ngoài miền Bắc. Chuyện là, ba tôi gửi lá thư về quê nội, gửi về địa chỉ làng xã ngày xửa ngày xưa, ngày chưa chia cắt đất nước. Kỳ lạ thay, lá thư đó vẫn đến đúng nơi và chú ruột tôi đã hồi âm.
Chi tiết này cho thấy, thời chiến tranh hầu như địa danh ở ngoài Bắc không có nhiều sự xáo trộn, thay đổi. Khỏi phải nói, ba mẹ tôi mừng rỡ biết chừng nào. Lá thư ấy một lần nữa đã đánh thức trong lòng mẹ tôi niềm khát khao từ thuở thanh xuân: được chồng dẫn về quê chồng. Ước mơ đó, nay dễ dàng quá? Tưởng là thế. Nhưng rồi không là thế. Đời sống bấy giờ đã có quá nhiều thay đổi, chẳng mấy chốc, thời gian cuốn trôi một đời người. Mãi đến lúc ba tôi mất, mẹ tôi vẫn chưa một lần về quê chồng.
Vậy, ước mơ của mẹ tôi vĩnh viễn khép lại?
Biết được nỗi lòng canh cánh của bà từ thời còn son rỗi đến lúc đã già, anh em tôi mới tổ chức cho mẹ được về quê của ba. Lạ thay cho tình cảm của người phụ nữ Việt Nam, tôi nghĩ, tựa như sợi dây đàn đã nằm yên, đã lãng quên trên bức tường thời gian, bụi mờ đã phủ, âm thanh đã mất, thế nhưng khi nghe các con nhắc đến chuyện này, lập tức gương mặt mẹ tôi rạng rỡ, bà tán thành ngay.
Trong lòng bà từ đó réo rắt biết bao cung bậc xốn xang. Vào năm 2001, lần đầu tiên mẹ tôi được anh Lương - con trai cả của bà - dẫn về quê chồng. Ngay lập tức, tình cảm của cô thôn nữ mới lớn ngày xưa đã sống dậy trong lòng bà cụ đã ngoài “thất thập”. Thử hỏi, làm sao không cảm động!
|
Cha và mẹ của tác giả yên vui tuổi già |
Có lẽ trong đời, tôi không thể có thêm được bài thơ nào xao xuyến hơn khi nhớ về mẹ, nhớ về giây phút đầu tiên thời son trẻ “mẹ về với ba” trong ngày cưới.
Năm mươi năm làm dâu
Quê chồng xa lăng lắc
Lần đầu tiên đi về
Mẹ mừng rơi nước mắt
Đêm trằn trọc không yên
Ba con giờ đã mất
Sáng mai mẹ lên tàu
Anh con cầm tay dắt
Sông núi dài trước mặt
Bỗng dưng mẹ khóc òa
Lấy chồng mười bảy tuổi
Bảy mươi mới về nhà
Cỏ mọc bờ ruộng xa
Níu bước chân mẹ lại
Ba con bay về trời
Cánh diều xa tít mãi…
Thắp một nén nhang thơm
Trên bàn thờ ông nội
Chao ôi cái kiếp người
Như mây bay gió thổi
Được trở về quê chồng
Mẹ bây giờ mới thấy
Vui buồn thuở đầu tiên
Làm dâu năm mười bảy
Mẹ bần thần đứng lại
Vân vê vạt áo dài
Nhìn xuống đôi guốc mộc
Mòn vẹt gót chân chai…
Đó là cái tết êm đềm nhất trong ký ức mẹ tôi, kể từ ngày có chồng. Yêu dấu biết bao nhiêu. Ngây thơ biết bao nhiêu. Trong sáng biết bao nhiêu. Và, bây giờ, nhớ về ngày tết mẹ đã về thăm quê nội, ngày ấy vẫn còn có mẹ, tôi lại thảng thốt, bùi ngùi thốt lên: “Mẹ ơi mẹ!”.
Nhà thơ Lê Minh Quốc