Ở Sài Gòn, tôi vẫn thường dừng chân bên những chợ nhỏ như chợ Cây Thị, chợ Xóm Mới để mua ít thứ bánh trái dân dã. Tôi không sinh ra ở miền Tây, nhưng từ tuổi thiếu niên đã sống ở vùng sông nước rồi làm rể xứ này nên vẫn là “môn đồ” của những món ăn mang hương vị “quê mùa” ấy.
Ngày ấy, miền đất tôi sống còn đò giang cách trở. Lúc đó, những ngày tết Nguyên đán hay tết Đoan ngọ mới vui làm sao. Nhà nhà đãi nếp, xay gạo, gói đủ các loại bánh trái. Bánh tét, bánh lá dừa, bánh ú… và đặc biệt là bánh ít. Trời vừa hửng nắng, những chàng trai đã đi lựa các tàu chuối lớn. Gạo xay từ đêm, đang dằn trong bồng. Cục bột đã ráo nước, được phân làm hai - nửa đem phơi khô, nửa để nguyên.
Các dì, các cô rửa lá chuối, phơi cho mềm, rọc lá và xé thành từng miếng nhỏ vừa phải rồi cắt tròn góc. Đậu xanh đãi vỏ được nấu nhừ trên chảo rồi nêm nếm, vắt thành nhân. Thường thì nhà nào cũng làm cả bánh ít nhân đậu và nhân dừa. Nhiều gia đình đông người còn làm bánh ít trần - bánh nhân mặn, không gói lá.
Khi con còn nhỏ, tôi lục trong trí nhớ, kể sự tích bánh ít. Ngoài bánh chưng, bánh dày mà người miền Tây gần như không biết; bánh ít cũng được kể bắt nguồn từ thời các vua Hùng. Cô công chúa Út đã từ chiếc bánh của Lang Liêu sáng tạo ra bánh ít bằng cách lấy chiếc bánh dày bọc lấy nhân của bánh chưng và phỏng theo hình dạng của bánh chưng, bánh dày để gói thành kiểu bánh mới.
Để thể hiện sự khiêm nhường, công chúa Út làm bánh nhỏ lại, ví phận mình chỉ là út ít. Từ đó, bánh của nàng Út lưu truyền trong dân gian, thay hình đổi dạng khi dân tộc Việt tiến dần về phương Nam; nhưng hầu như ở cả ba miền, bánh ít luôn là lễ vật trên bàn thờ tổ tiên trong ngày giỗ, tết. Ở các đám giỗ, khi tiễn khách, người nhà còn gởi một ít quà, thường có năm ba chiếc bánh ít.
Tuy đơn giản, nhưng những hình ảnh của bức tranh quê ngày cũ giờ đã dần lùi xa. Những đứa trẻ thành phố không phải cháu nào cũng biết các loại bánh mà chỉ mới đâu đó trong quá khứ, ba mẹ chúng từng sung sướng khi được ăn trong những ngày giỗ, tết.
Ngay cả tại quê ngoại của các con tôi - vùng trung tâm đồng bằng nhưng giờ thưa người, giao thông thuận tiện; khi nhà có đám tiệc, việc gói bánh cũng không thường xuyên như trước. Người dân quê cũng quen dần với những hộp “bánh tây” nhiều màu, gọn nhẹ, rẻ tiền…
Trong những mùa hè bây giờ, khi cùng gia đình về miền Tây, tôi thường ngồi bên hiên nhà sau, nhìn chiếc cối đá to bị bỏ quên bên góc vườn. Tôi nhớ rất rõ hình dáng thanh mảnh của nàng đi giữa các bờ mương, chọn những tàu chuối lành lặn để làm bánh ít. Mẹ chúng tôi giờ đã già, con cháu phần lớn đi xa hay bận rộn áo cơm; việc xay bột, đãi đậu, chọn lá gói bánh trở thành nhiêu khê.
Chọn lựa tốt nhất là nhờ một bà cụ vẫn giữ truyền thống bằng nghề làm các loại bánh cổ truyền, gói theo đơn đặt hàng. Những chiếc bánh tét, bánh dừa, bánh ít… bà cụ gói cũng đẹp, cũng ngon, nhưng hồn cốt xưa đã phần nào mai một.
Nguyễn Đình Bổn