Hỗ trợ sinh kế để dân sống chung với hạn, mặn

01/03/2025 - 06:30

PNO - Những năm qua, vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) xảy ra nhiều đợt hạn, mặn khốc liệt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc sản xuất nông nghiệp và đời sống của người dân.

Theo Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia, mùa khô 2024-2025, tổng lượng dòng chảy trên sông Mê Kông về ĐBSCL có thể giảm từ 5 - 15% so với trung bình nhiều năm, mực nước đầu nguồn sông Cửu Long cũng xuống thấp hơn 0,1 - 0,2m khiến mức độ xâm nhập mặn có khả năng cao hơn mức trung bình.

Thời gian qua, chính quyền các địa phương vùng ĐBSCL đã triển khai nhiều giải pháp ứng phó, từ đầu tư hạ tầng thủy lợi đến điều chỉnh mô hình sản xuất. Những công trình thủy lợi lớn cùng các cống kiểm soát mặn ở nhiều tỉnh đã giúp hạn chế thiệt hại.

Nông dân tỉnh Tiền Giang dự trữ nước ngọt để sản xuất và sinh hoạt trong mùa khô - Ảnh: Huỳnh Lợi
Nông dân tỉnh Tiền Giang dự trữ nước ngọt để sản xuất và sinh hoạt trong mùa khô - Ảnh: Huỳnh Lợi

Tuy nhiên, hệ thống thủy lợi chưa đồng bộ, khả năng trữ nước còn hạn chế và các giải pháp phi công trình chưa được triển khai rộng rãi vẫn khiến khu vực này chịu ảnh hưởng nặng nề khi hạn, mặn đạt đỉnh. Vẫn còn những điểm yếu trong điều tiết nước, đặc biệt là ở những vùng xa hệ thống thủy lợi lớn.

Trong các năm 2016, 2020, vùng ĐBSCL trải qua các đợt hạn, mặn khốc liệt khiến hàng trăm ngàn héc ta lúa bị mất trắng, hàng trăm ngàn hộ dân vùng ven biển thiếu nước ngọt sinh hoạt. Năm 2024, mức độ hạn, mặn không nghiêm trọng như năm 2020 nhưng vẫn ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của người dân; nhiều khu vực ven biển của các tỉnh Bến Tre, Tiền Giang, Trà Vinh, Cà Mau vẫn xảy ra tình trạng thiếu nước ngọt nghiêm trọng.

Trước mắt, chính quyền và cơ quan chức năng các địa phương cần khẩn trương rà soát, củng cố hệ thống đê bao, cống kiểm soát mặn và các kênh nội đồng để trữ nước ngọt; điều chỉnh lịch thời vụ, sử dụng giống cây trồng chịu hạn, mặn để giảm thiểu thiệt hại. Việc đầu tư xây dựng các hồ trữ nước ngọt quy mô lớn và tăng trữ nước trong các hộ gia đình vào mùa mưa cũng cần được quan tâm để đảm bảo nguồn nước ngọt ổn định trong mùa khô.

Công tác dự báo và cảnh báo sớm cần được tăng cường hơn nữa bằng việc triển khai các hệ thống quan trắc chất lượng nước, ứng dụng công nghệ số vào cảnh báo xâm nhập mặn để giúp chính quyền các địa phương và người dân chủ động trữ nước, kịp thời điều chỉnh kế hoạch sản xuất.

Về lâu dài, cần thay đổi mô hình phát triển vùng ĐBSCL theo hướng thích ứng với biến đổi khí hậu. Các mô hình canh tác bền vững như lúa - tôm, cây ăn trái chịu mặn cần được nhân rộng, giảm dần diện tích lúa vụ ba ở những vùng dễ bị tổn thương.

Quy hoạch thủy lợi cần hướng đến việc điều tiết nước tổng thể, đảm bảo cân bằng nguồn nước giữa các vùng. Bên cạnh đó, bảo vệ rừng ngập mặn và các hệ sinh thái ven biển là yếu tố quan trọng giúp giảm tác động của xâm nhập mặn. Rừng ngập mặn không chỉ đóng vai trò “lá chắn xanh” bảo vệ vùng đất ven biển mà còn giúp duy trì nguồn nước ngầm và cải thiện chất lượng nước.

Ngoài các giải pháp kỹ thuật, chính sách hỗ trợ người dân vùng chịu ảnh hưởng của hạn, mặn cần được quan tâm hơn. Các gói tín dụng ưu đãi, hướng dẫn kỹ thuật canh tác bền vững và các chương trình hỗ trợ chuyển đổi sinh kế sẽ giúp người dân thích ứng tốt hơn với điều kiện khô hạn. Đồng thời, cần có sự hợp tác chặt chẽ với các quốc gia thượng nguồn sông Mê Kông trong quản lý và điều tiết nguồn nước.

Thực tế đã chứng minh, ĐBSCL không thể phụ thuộc hoàn toàn vào các công trình kiểm soát nước mà cần một chiến lược tổng thể, kết hợp giữa các giải pháp công trình và phi công trình. Học cách sống chung với hạn, mặn giống như sống chung với lũ là điều tất yếu để thích ứng trước thay đổi thất thường của tự nhiên và biến đổi khí hậu.

Tiến sĩ Trần Hữu Hiệp

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI