Một năm sau khi trở lại Việt Nam - chiến trường mà ông đã có mặt ngày nào, Kevin Bowen (Giám đốc Trung tâm William Joiner - Trung tâm Nghiên cứu hậu quả xã hội và chiến tranh thông qua những hoạt động văn học nghệ thuật - hiện là Viện William Joiner, Đại học Massachusetts, Boston, Mỹ) đã nỗ lực thiết lập “cây cầu văn hóa” Việt - Mỹ qua sự kết nối những nhà văn Mỹ và Việt Nam. 2 nhà văn cựu binh Việt Nam đầu tiên được mời tham dự các buổi nói chuyện với các cựu binh Mỹ, vào mùa hè năm 1988 là Lê Lựu và Ngụy Ngữ.
Từ đó, hằng năm, đều đặn các nhà văn Việt Nam được mời đến Viện William Joiner học hỏi, giao lưu và ngược lại, những nhà văn - cựu binh Mỹ cũng có những chuyến thăm Việt Nam. Hơn 30 năm qua, có hơn 100 nhà văn Việt Nam đã được mời đến Viện William Joiner. Trước khi Chính phủ Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận Việt Nam, cầu nối văn học xuyên qua biển, cách nửa vòng trái đất đã được thiết lập, giúp 2 nước gần nhau hơn.
|
Martha Collins (thứ ba từ trái sang) tặng tác phẩm dịch thơ Việt của bà cho tác giả bài viết và vợ chồng nhà thơ, dịch giả Nguyễn Bá Chung - Phan Thị Ngọc Chấn, Cambridge, 7/2024 |
Tại sao nhịp cầu quan hệ Việt - Mỹ sau chiến tranh bắt đầu là văn học mà không là gì khác? Câu hỏi ấy thôi thúc tôi có những chuyến đi sang Mỹ, tìm những nhà văn đã từng “đi qua biển”.
Sự rung cảm từ bên kia trái đất
Mùa hè năm 2024, cùng nhà thơ Nguyễn Bá Chung bước vào tòa nhà số 66 đường Martin, thành phố Cambridge, tôi được chào đón bằng một tượng Phật được đặt trên đường dẫn ra hành lang chung. Căn hộ của Martha Collins ở đó, trên tầng 2 tòa nhà. Trong căn hộ đó, nữ chủ nhân 80 tuổi nhưng đôi mắt vẫn sáng lấp lánh, pha trà một cách thành thạo bằng bộ ấm trà Việt Nam. Căn phòng của bà đầy sách, và sách lẫn trà đã kết nối Martha Collins với những người bạn Việt Nam như không hề có rào cản nào dù là về ngôn ngữ hay địa lý.
Martha Collins dẫn câu chuyện về một miền ký ức miên man của mấy mươi năm trước: “Tôi biểu tình phản đối Chính phủ Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Chúng tôi phản đối những quả bom rải xuống Việt Nam từ đất nước chúng tôi. Thú thật, tôi hiểu về lịch sử, chính trị, địa lý của Việt Nam qua sách vở mà không biết nhiều về con người Việt Nam. Tôi thường tự hỏi nơi ấy cánh đồng ra sao, những người con gái cầm súng thế nào, họ yêu, họ sống có khác chúng tôi…”. Hàng loạt câu hỏi được đặt ra, trở thành tứ một bài thơ mà Martha Collins đã viết: Tôi không biết. Chính những điều “không biết” khiến tâm trí bà luôn bị thôi thúc hướng về một đất nước cách nửa vòng trái đất.
Sau chiến tranh Việt Nam, bà tiếp tục công việc của mình: giảng dạy, làm thơ, hoạt động xã hội. Bà bắt đầu dịch một số tác phẩm văn chương từ những ngôn ngữ đã học. Năm 1993, Kevin Bowen mời bà dự buổi trao đổi về dịch thuật tại Viện William Joiner, và ở đó bà gặp nhà thơ Nguyễn Quang Thiều.
Ông mang cho bà bản dịch tiếng Anh một số bài thơ của mình. Chỉ mới đọc bài thơ đầu tiên, với những dòng “Những ngọn khói trẻ chăn trâu đốt rạ trên cánh đồng sau vụ gặt/ Thở vào ta hương vị tháng Mười…” - bà đã xúc động. Đó là lần đầu tiên bà biết đến một bài thơ Việt Nam, cũng là lần đầu tiên cảm nhận được những đứa trẻ chăn trâu, ngửi được mùi khói từ rơm rạ trên cánh đồng… “Tôi cũng không ngờ những bài thơ của Thiều đã thôi thúc tôi dấn sâu vào việc dịch văn học Việt. Rồi Kevin Bowen giới thiệu tôi tham gia một khóa học tiếng Việt ở Đại học Harvard. Nhưng hiểu sâu hơn tiếng Việt với vẻ đẹp, sự phong phú và cái khó của nó giúp tôi làm việc hiệu quả hơn”.
Nhắc lại lần đầu tiên sang Việt Nam, năm 1995, Martha Collins tràn đầy phấn khích, bởi đã có nhiều điều gần như vượt khỏi trí tưởng tượng của bà. “Người Việt Nam thân thiện, mến khách, thật bao dung. Tôi không nhìn thấy sự thù hận nào dành cho đất nước đã từng mang bom đến hủy hoại vùng đất của họ. Tôi không thể tin nổi khi nhìn thấy cảnh những nhà thơ Mỹ và Việt Nam cùng đọc thơ cho nhau nghe. Đây là những con người từng đối đầu, sẵn sàng bắn nhau trong chiến tranh, giờ ngồi lại với nhau để nói về thơ ca, về văn chương. Phút giây đó tôi không hề hối tiếc vì mình đã có những năm tháng tuổi trẻ tham gia những cuộc biểu tình phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam” - bà chia sẻ.
Khi trở về Mỹ, bà tiếp tục dịch thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. Những bài thơ tràn đầy nữ tính của người phụ nữ đi qua cuộc chiến tranh khiến bà chạm đến Việt Nam ở một tầng sâu khác. Trước khi gặp nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, bà biết đó là người phụ nữ phải dấn thân vào cuộc chiến khi còn rất trẻ, nhưng bà không nghĩ được hồn thơ ấy đối mặt chiến tranh ác liệt bằng sự tĩnh tại, an nhiên và tinh tế đến thế: “Đêm qua bom nổ trước thềm/ Sớm ra trời vẫn ngọt mềm tiếng chim/ Nghe hương cây vội đi tìm/ Hái chùm ổi chín lặng im cuối vườn…”. Từ những vần thơ đó, bà nhận ra khát vọng hạnh phúc, sự hòa ái của cả một dân tộc. Khi cùng một nhà thơ gốc Việt bắt tay dịch thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, bà càng hiểu thêm, trong chiến tranh Việt Nam có quá nhiều gương mặt phụ nữ. Họ đã sống, chịu đựng tổn thất, kiên cường và quá nhiều hy sinh.
Một đời vì thơ Việt
Sau khi tập thơ Cốm non (Green Rice) song ngữ Việt - Anh của Lâm Thị Mỹ Dạ được xuất bản, bà lại một lần nữa rung cảm với hình ảnh tuổi thơ và bóng người mẹ trong thơ của Ngô Tự Lập. Bà bắt tay vào dịch, cùng với chính tác giả. Tập thơ song ngữ Những vì sao đen (Black Stars, Milkweed, 2013) với 40 bài thơ của Ngô Tự Lập, mất 6 năm mới có thể hoàn thành, sau đó lọt vào vòng sơ khảo PEN 2014 cho hạng mục “Thơ dịch”. Sau Ngô Tự Lập là những bài thơ thiền của Việt Nam… “Ngày qua ngày, giật mình nhìn lại, tôi mới nhớ ra mình đã gắn bó với công việc dịch văn học Việt Nam hơn 20 năm rồi!” - Martha Collins trầm ngâm.
“Chị hay dùng đại từ “chúng tôi” trong các dự án dịch thuật. Điều đó có ý nghĩa như thế nào?”. Martha Collins rót thêm trà cho nhà thơ, dịch giả Nguyễn Bá Chung, nhìn ông trìu mến: “Vì tôi có được sự giúp đỡ rất nhiệt tình của những người bạn Việt Nam, đặc biệt Nguyễn Bá Chung. Tiếng Việt đã khó mà dịch thơ càng khó. Một bài thơ có rất nhiều bản dịch. Chúng tôi liên tục email qua lại với nhau, để chọn ra bản dịch hoàn hảo nhất. Không có những người bạn như Chung hỗ trợ, bản dịch chắc sẽ thiếu màu sắc, phong cách riêng của tác giả và nhiều thiếu sót…”.
Martha Collins nói… tiếng Việt quá khó. Người dịch dễ bị mắc lỗi nếu chưa chạm được sự thâm sâu, nhiều tầng nấc của ngôn ngữ này. Tiếng Việt phong phú, sử dụng linh hoạt, tùy tình huống… Đó là chưa kể, thơ ca vốn chứa nhiều tầng nấc trong một từ, một câu… khiến việc dịch tiếng Việt sang tiếng Anh hay ngược lại thật sự là một “trận chiến”. Nó đòi hỏi không chỉ sự am hiểu ngôn ngữ mà còn bản lĩnh, trải nghiệm.
“Những dự án dịch thuật rất công phu, tốn nhiều thời gian, công sức có mang về cho bà nhiều giá trị tiền bạc?”. Tôi hỏi và Martha Collins mỉm cười từ tốn: “May là tôi sống bằng tiền lương của một giáo sư đại học, sau này có tiền hưu trí. Nhờ vậy, tôi theo đuổi được đam mê của mình. Tôi muốn dành tinh hoa cuộc đời mình đưa những giá trị thơ ca Việt Nam ra thế giới”.
Tôi rời căn hộ của Martha Collins. Đó là một buổi chiều nắng đẹp ở Cambridge. Ngoái nhìn lại tòa nhà số 66 đường Martin, tôi thật xúc động nhận ra Martha Collins vẫn còn đứng bên bậc cửa nhìn theo chúng tôi. Trong tôi tràn ngập lòng biết ơn người phụ nữ cách nửa vòng trái đất dành cả cuộc đời dịch tác phẩm văn học Việt Nam. Vóc dáng bé nhỏ, thanh mảnh của bà gợi tôi nhớ hình ảnh cây tre ở Việt Nam, với cốt cách kiên cường, bền bỉ, dẻo dai, kiên định với tình yêu và đam mê của mình.
Trầm Hương