Khi bị bạo hành, hầu hết không tìm sự hỗ trợ
Cuộc điều tra trên được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Tổng cục Thống kê phối hợp thực hiện với sự hỗ trợ kỹ thuật, tài chính của Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA), Bộ Ngoại giao - Thương mại Úc (DFAT) và Đại sứ quán Úc tại Việt Nam.
Điều tra năm 2019 gồm ba phần chính: nghiên cứu định lượng, nghiên cứu định tính, nghiên cứu về thiệt hại kinh tế do bạo lực đối với phụ nữ gây ra. Gần 6.000 phụ nữ trong độ tuổi từ 15-64 đã được phỏng vấn.
Gần 63% phụ nữ được hỏi cho biết, từng bị chồng gây ra một hoặc hơn một hình thức bạo lực thể xác, tình dục, tinh thần, bạo lực kinh tế hoặc bị kiểm soát hành vi. Và trong 12 tháng qua, có gần 32% phụ nữ đang tiếp tục hứng chịu bạo lực.
|
Cứ 10 phụ nữ thì có 1 phụ nữ (9%) bị bạo lực tình dục từ năm 15 tuổi. Phần lớn kẻ gây ra bạo lực là nam giới không phải thành viên trong gia đình. |
Theo điều tra, ở Việt Nam, hầu hết bạo lực đối với phụ nữ thường do chồng gây ra. Nếu phụ nữ nào bị bạo lực thể xác do người khác không phải là chồng gây ra thì “thủ phạm” chủ yếu là thành viên nam trong gia đình (60,6%).
Ngoại trừ bạo lực tình dục, tỷ lệ bạo lực đối với phụ nữ ở tất cả các hình thức đến năm 2019 đều thấp hơn so với năm 2010. Sự thay đổi tích cực này đang diễn ra ở nhóm phụ nữ trẻ. Ngoài ra, điều tra cũng chỉ ra, bạo lực đối với phụ nữ không những gây tổn hại sức khỏe thể chất, tinh thần của nữ giới mà còn tạo ra những hậu quả nghiêm trọng cho phát triển kinh tế. Ước tính, bạo lực đối với phụ nữ đang gây thiệt hại về kinh tế cho Việt Nam tương đương khoảng 1,8% GDP trong năm 2018.
Bạo lực đối với phụ nữ vẫn bị che giấu; một nửa số phụ nữ bị chồng bạo hành chưa bao giờ kể với bất kỳ ai; hầu hết phụ nữ (90,4%) bị chồng bạo lực thể xác hoặc tình dục đã không tìm kiếm bất kỳ sự hỗ trợ nào từ các cơ quan chính quyền.
Bà Nguyễn Thị Hà - Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội - cho rằng, nhóm phụ nữ trẻ tuổi không cam chịu và mạnh mẽ hơn trong đấu tranh với bạo lực. Những người có trình độ học vấn cao có tỷ lệ bị bạo lực thấp hơn, cho thấy học vấn đã giúp phụ nữ tự tin hơn, mạnh mẽ và độc lập hơn trong cuộc sống.
“Tuy nhiên, nhiều phụ nữ vẫn có nguy cơ cao bị bạo lực. Tình trạng bạo lực với phụ nữ vẫn được che giấu do định kiến giới còn khá phổ biến trong xã hội. Sự im lặng, kỳ thị của cộng đồng và văn hóa đổ lỗi là những rào cản khiến người bị bạo lực không dám lên tiếng và tìm kiếm sự giúp đỡ” - bà Hà nói.
Bà cho biết thêm, trẻ em cũng là nạn nhân, dễ gặp rủi ro hơn trong cuộc sống khi phải sống trong gia đình mà mẹ của mình bị bạo lực. “Những tồn tại, thách thức này cần sớm được khắc phục với trách nhiệm từ phía các cơ quan quản lý nhà nước cũng như sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức phi chính phủ và mỗi người dân trong xã hội” - bà Hà kêu gọi.
61,4% con cái từng chứng kiến hoặc nghe thấy bạo lực
Báo cáo điều tra dẫn lời tâm sự của một phụ nữ 43 tuổi tham gia trả lời phần nghiên cứu định tính: “Tôi nói với những chị em khác, nếu cảm thấy mình nhẫn nhịn được thì nên nhẫn nhịn. Còn không nhẫn nhịn được thì mình phải sống cho mình. Không thể nào vì sợ cái tiếng hai, ba chồng mà phải chôn vùi cuộc sống của mình ở chỗ ngục tù như vậy”.
Báo cáo này còn cho biết, trong số phụ nữ bị chồng bạo lực thể xác, 61,4% cho biết, con cái họ đã từng chứng kiến hoặc nghe thấy bạo lực. Phụ nữ bị chồng bạo lực thể xác hoặc tình dục nói rằng, con cái họ trong độ tuổi 5-12 thường có các vấn đề về hành vi.
Bà Naomi Kitahara - Trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam - cho hay, chấm dứt bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái là một trong ba chương trình nghị sự mang tính chuyển đổi mà UNFPA cam kết đạt được trên toàn cầu.
“Ở Việt Nam, UNFPA đã đồng hành cùng với chính phủ và các cơ quan liên quan trong hơn một thập niên hướng tới chấm dứt bạo lực đối với phụ nữ. Chúng ta đã có bằng chứng cập nhật về thực trạng bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam và tôi kêu gọi mọi người hãy chung tay chấm dứt tình trạng bạo lực này. Không giải quyết vấn đề này, Việt Nam không có cách nào đạt được mục tiêu phát triển bền vững vào năm 2030 và bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau” - bà Kitahara nhấn mạnh.
Báo cáo mới nhất đưa ra kết quả, bạo lực là hành vi có tính tiếp thu. Hành vi này có thể được ngăn chặn và chúng ta cần hành động ngay. Phụ nữ là nạn nhân của bạo lực do chồng gây ra thì nhiều khả năng mẹ của người chồng đã từng bị đánh hoặc bản thân người chồng đã bị đánh đập khi còn nhỏ. Trong thăm dò tác động của việc phản kháng khi bị đánh, có gần 57% phụ nữ cho biết, bạo lực thể xác đã đỡ hơn hoặc đã chấm dứt từ chồng hay bạn tình.
“Cho dù bạo lực xảy ra ở đâu, dưới hình thức nào hay ai bị ảnh hưởng, đều phải được ngăn chặn. Chúng ta cùng phối hợp để xây dựng một thế giới mà ở đó nam giới và phụ nữ, trẻ em trai và trẻ em gái đều được hưởng cuộc sống bình đẳng, an toàn, không có bạo lực” - bà Kitahara nói.
Cho đến nay, Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới thực hiện thành công điều tra quốc gia lần thứ hai (lần thứ nhất vào năm 2010) về bạo lực đối với phụ nữ, đặc biệt sử dụng phương pháp điều tra đa quốc gia về tình hình sức khỏe của phụ nữ và bạo lực gia đình của Tổ chức Y tế thế giới (WHO).
- Tỷ lệ phụ nữ bị chồng bạo lực tình dục trong đời năm 2019 (13,3%) cao hơn so với năm 2010 (9,9%). Điều này đặc biệt đúng ở nhóm phụ nữ trẻ ở độ tuổi từ 18-24 (13,9% năm 2019 so với 5,3% năm 2010). Mặc dù điều này phản ánh sự gia tăng của tình trạng bạo lực nhưng cũng có thể là kết quả của sự thay đổi xã hội mà ở đó phụ nữ cởi mở hơn khi nói về chủ đề tình dục và bạo lực tình dục.
- Cứ 10 phụ nữ thì có 1 phụ nữ (9%) bị bạo lực tình dục từ năm 15 tuổi. Phần lớn kẻ gây ra bạo lực là nam giới không phải thành viên trong gia đình.
- Phụ nữ khuyết tật bị các hình thức bạo lực do chồng gây ra cao hơn so với phụ nữ không bị khuyết tật.
- 4,4% phụ nữ cho biết, họ bị xâm hại tình dục trước tuổi 15.
- Cứ 10 phụ nữ thì có 1 người (11,4%) bị bạo lực thể xác từ năm 15 tuổi.
|
Nam Anh