Hệ thống quản lý toàn diện bệnh nhân vảy nến
 |
Bác sĩ Phạm Thị Uyển Nhi |
Nhận thấy bệnh vảy nến là bệnh mạn tính, tái đi tái lại ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống, sức khỏe của người bệnh, tiến sĩ, bác sĩ Phạm Thị Uyển Nhi - 35 tuổi, Phó trưởng phòng phụ trách Phòng Kế hoạch tổng hợp, Trưởng đơn vị Thử nghiệm lâm sàng, Bệnh viện Da liễu TPHCM - đã nghĩ đến việc điều trị cá thể hóa bệnh vảy nến.
Từ năm 2018, bác sĩ Nhi cùng cộng sự đã nghiên cứu, thực hiện “Ứng dụng hình ảnh học và công nghệ thông tin trong tối ưu hóa điều trị bệnh nhân vảy nến”. Ban đầu, ứng dụng chỉ có quản lý hình ảnh bệnh nhân, đến năm 2020, nhóm tiếp tục tích hợp hệ thống cảnh báo điều trị. Năm 2022 phát triển thêm hệ thống bảng điểm, giúp bác sĩ cũng có thể theo dõi, hội chẩn, tầm soát bệnh đồng mắc, cảnh báo điều trị cũng như phát hiện và tầm soát nguy cơ tái phát. Từ đó, các bác sĩ có thể đưa ra kế hoạch điều trị chính xác, hiệu quả hơn.
Theo bác sĩ Nhi, việc quản lý và điều trị cá thể hóa giúp bác sĩ có nhiều thời gian hơn để tư vấn kỹ, lắng nghe người bệnh, kịp thời hỗ trợ tinh thần cho bệnh nhân. Không chỉ mang lại hiệu quả về điều trị mà còn giúp người bệnh tìm lại sự tự tin, có thể tiếp tục công việc, học tập và giao tiếp xã hội.
Một người mắc bệnh vảy nến sẽ phải đối mặt với 2 loại chi phí. Đầu tiên là tiền thuốc, tiền khám bệnh. Kế đó là các chi phí đặc biệt như: phương tiện di chuyển, phải nghỉ việc vì bệnh tái phát, ảnh hưởng đến mối quan hệ tình cảm, hạnh phúc… Chính vì vậy, một khi người bệnh được điều trị, quản lý vảy nến tốt sẽ tự tin đi làm, giao tiếp xã hội, có thể tự chi trả chi phí điều trị, không là gánh nặng cho người thân.
Hiện tại, ứng dụng đã quản lý 17.952 bệnh nhân. Trong đó, rất ít người bỏ ngang điều trị hay tự ý sử dụng thuốc bên ngoài. Bác sĩ Nhi cũng đang nghiên cứu ứng dụng mạng nơ-ron trong việc chẩn đoán độ nặng của bệnh vảy nến, tiếp tục cải tiến quy trình điều trị toàn diện cho người bệnh.
Tối ưu hóa quy trình vận hành máy móc
 |
Bác sĩ Trần Công Hùng |
Là một trong những bác sĩ trẻ tiêu biểu, không chỉ có nhiều sáng kiến trong khám, chữa bệnh, mà bác sĩ Trần Công Hùng - 33 tuổi, Khoa Vật lý trị liệu - Phục hồi chức năng của Bệnh viện Y học cổ truyền TPHCM - còn nỗ lực thực hiện tối ưu hóa quy trình vận hành máy móc và thiết bị phục vụ quá trình điều trị bệnh nhân.
Khoa Vật lý trị liệu - Phục hồi chức năng có đến 18 loại máy móc, thiết bị hiện đại như máy điện xung, máy sóng ngắn, máy từ trường, siêu âm, máy kéo giãn cột sống, máy laser… Mỗi thiết bị có hướng dẫn sử dụng, cảnh báo và chỉ định khác nhau. Bất kỳ sai sót nào trong quá trình sử dụng cũng có thể dẫn đến sự cố hỏng hóc thiết bị, ảnh hưởng đến chất lượng điều trị và tâm lý bệnh nhân.
Do đó, theo bác sĩ Hùng, vận hành các thiết bị này, nhân viên vận hành phải qua đào tạo và kiến tập nhiều tháng. Tuy nhiên, việc ghi nhớ các bước sử dụng máy rất khó. Dẫn đến ít nhân viên có thể đảm bảo việc đứng máy, thậm chí có người không dám sử dụng vì sợ sẽ gây hư hỏng.
Trung bình mỗi ngày có khoảng 800-900 người bệnh đến khám, điều trị với hơn 1.800 lượt khám, phục hồi vận động.
Nếu có 1-2 máy bị trục trặc, hư hỏng sẽ rất dễ gây ra tình trạng bệnh nhân dồn ứ lại. “Tâm lý chờ đợi lâu để được sử dụng thiết bị không chỉ làm tăng sự bức xúc, mà còn khiến người bệnh dễ chán nản, bỏ tập, có thể làm gián đoạn quá trình phục hồi” - bác sĩ Hùng nói.
Từ đó, bác sĩ Hùng đã cùng 2 đồng nghiệp đưa ra sáng kiến cải tiến quy trình vận hành máy móc. Anh soạn thảo quy trình sử dụng máy thống nhất, dán lên từng thiết bị. Quy trình này được đơn giản hóa, chỉ giữ lại những nguyên tắc điều trị quan trọng, ghi rõ từng bước sử dụng từ khi khởi động đến tắt máy. Nhờ vậy, các nhân viên vận hành không cần phải mất nhiều thời gian tập huấn. Sau chỉ 1-2 ca bệnh, họ có thể tự tin sử dụng các thiết bị mà không gặp phải sự cố. Nhận thấy sự hiệu quả, ban giám đốc bệnh viện đã cho triển khai quy trình sử dụng máy, thiết bị toàn bệnh viện, giúp nâng cao hiệu quả công việc và sự hài lòng của bệnh nhân.
Năm 2024, trong chuyến công tác tại xã đảo Thạnh An, bác sĩ Hùng đã rất ấn tượng với kỹ thuật ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trên máy X-quang, khi AI hỗ trợ bác sĩ đọc và phân tích kết quả X-quang phổi. Anh nói: “Điều này rất quan trọng đối với tôi. Bởi bác sĩ y học cổ truyền ít được đào tạo về chẩn đoán hình ảnh. Công nghệ AI sẽ giúp hạn chế sai sót và nâng cao độ chính xác trong chẩn đoán”. Điều này thôi thúc anh có thêm những ý tưởng trong sử dụng phần mềm quản lý bệnh trong tương lai.
Với sự phấn đấu không ngừng, nhiều sáng kiến, kỹ thuật nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, góp phần vào sự phát triển của ngành y học cổ truyền và phục hồi chức năng, bác sĩ Trần Công Hùng đã được vinh danh là Thầy thuốc trẻ tiêu biểu 2024 và nhận giải thưởng Phạm Ngọc Thạch lần thứ chín năm 2025.
Hỗ trợ hiệu quả bệnh nhân điều trị hiếm muộn
 |
Bác sĩ Huỳnh Phúc Khánh Minh |
Trong suốt quá trình học bác sĩ nội trú tại Khoa Hiếm muộn, Bệnh viện Hùng Vương, thạc sĩ, bác sĩ Huỳnh Phúc Khánh Minh (29 tuổi) luôn bị cuốn hút bởi quy trình điều trị hiếm muộn. Anh nhận thấy nồng độ progesterone (một loại hoóc môn sinh dục nữ) có thể ảnh hưởng đến chu kỳ chuyển phôi cho người bệnh.
Vì vậy, bác sĩ Minh đã tìm hiểu các nghiên cứu của thế giới về progesterone trong điều trị hiếm muộn và bắt đầu nghiên cứu về việc sử dụng nồng độ progesterone trong điều trị thụ tinh ống nghiệm (IVF). Sáng kiến này đã được xem là nghiên cứu có tính cập nhật, mang đến triển vọng cao trong việc triển khai các nghiên cứu can thiệp hỗ trợ điều trị sinh sản, đoạt giải Nhì khi báo cáo tại hội nghị Khoa học và công nghệ tuổi trẻ ngành y tế lần thứ XXII.
Theo bác sĩ Minh, trước khi thực hiện chuyển phôi trữ, bệnh nhân sẽ được kiểm tra nồng độ progesterone trong máu. Những người có nồng độ progesterone thấp (dưới 10ng/ml) có thể gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn này, tỉ lệ thành công cũng thấp hơn. Do đó, việc xét nghiệm định lượng progesterone giúp bác sĩ phát hiện sớm, từ đó bổ sung progesterone kịp thời, gia tăng khả năng thụ thai.
“May mắn, sau khi tôi báo cáo ở hội nghị, các bác sĩ ở Bệnh viện Hùng Vương, đặc biệt tại Khoa Hiếm muộn đã tạo điều kiện để tôi thực hiện nghiên cứu, theo dõi tình trạng nồng độ progesterone thấp ở bệnh nhân của khoa” - bác sĩ Minh chia sẻ.
Trước khi chuyển phôi, người bệnh cần được lấy máu xét nghiệm các hạng mục liên quan, lúc này máu cũng sẽ được xét nghiệm định lượng progesterone. Hiện, mỗi xét nghiệm progesterone chỉ tốn 90.000 đồng. Sau khi có kết quả xét nghiệm, nếu cần thiết bác sĩ sẽ ngay lập tức bổ sung progesterone cho bệnh nhân qua đường uống hoặc tiêm bắp, giúp tăng tỉ lệ thụ thai.
Qua nghiên cứu 367 chu kỳ chuyển phôi trữ tại Khoa Hiếm muộn, bác sĩ Minh phát hiện có tới 70% trường hợp có nồng độ progesterone thấp. Tỉ lệ này cao hơn rất nhiều so với thế giới (chỉ 30%). Theo anh, 2 nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là thừa cân, béo phì và sử dụng thuốc không đúng cách trong chu kỳ chuyển phôi. Khi phát hiện, bác sĩ đã tiến hành bổ sung progesterone mang lại kết quả khả quan. Việc tiêm bổ sung progesterone không gây tác dụng phụ, sẽ ngừng khi thai đủ lớn.
Bác sĩ Minh cho biết, mặc dù nghiên cứu hiện chỉ mới đánh giá mức độ nồng độ progesterone thấp ở bệnh nhân trong chu kỳ chuyển phôi nhưng anh tin trong tương lai, việc sử dụng xét nghiệm định lượng progesterone sẽ trở thành xu hướng phổ biến. Nhất là trong bối cảnh y học ngày càng hướng đến việc cá thể hóa điều trị. Tuy mới chỉ bước vào chuyên ngành hiếm muộn khoảng 1 năm, bác sĩ Minh đã giúp khoảng 30 cặp vợ chồng có con.
Khi được hỏi anh có buồn không khi có những lần người bệnh từ chối điều trị vì thấy bác sĩ quá trẻ, bác sĩ Minh cười: “Bệnh nhân càng lớn tuổi sẽ càng trải qua nhiều năm hiếm muộn, mong ước có con của họ rất lớn nên sự e ngại là điều bình thường. Lúc này, bác sĩ chăm sóc chu đáo, tư vấn kỹ về nguyên nhân hiếm muộn, trả lời các câu hỏi của họ cũng là cách để tạo nên sự tin tưởng. Quan trọng là điều trị thành công, người bệnh có con, đó là món quà tinh thần vô cùng quý giá đối với tôi”.
Phạm An