2 nhà khoa học nữ nỗ lực đưa nghiên cứu khoa học ra với “đời”

12/03/2025 - 05:56

PNO - Giải thưởng Kovalevskaia năm 2024 vừa được trao ngày 8/3 vừa qua đã vinh danh 2 nhà khoa học nữ. Đó là phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Minh Tân - Giám đốc Viện Nghiên cứu và phát triển ứng dụng các hợp chất thiên nhiên, giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội và phó giáo sư, tiến sĩ Đặng Thị Mỹ Dung - Phó viện trưởng Viện Công nghệ Nano, Đại học Quốc gia TPHCM.

Bước ra đời sống để nắm bắt nhu cầu

Phòng làm việc của phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Minh Tân khá nhỏ hẹp, đơn sơ, xếp đầy các sản phẩm nghiên cứu. Cầm trên tay hộp mật ong gừng, chị chia sẻ: “Ngâm gừng với mật ong một cách bình thường, sản phẩm sẽ dễ bị tách ra và nhanh chóng hư hỏng. Nhưng với công nghệ JEVA, sản phẩm sánh quện, giữ được hương vị thơm ngon và có thể bảo quản trong vòng 1 năm. Quan trọng hơn là các thiết bị để chế biến sản phẩm đều nhỏ gọn, dễ sử dụng, có thể phục vụ cho các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ ở Việt Nam”.

Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Minh Tân tại lễ trao giải thưởng Kovalevskaia năm 2024 - ẢNH: THU HÀ
Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Minh Tân tại lễ trao giải thưởng Kovalevskaia năm 2024 - Ảnh: Thu Hà

Công nghệ JEVA là một trong những nghiên cứu thành công của chị Nguyễn Minh Tân, gặt hái nhiều giải thưởng quốc tế và góp phần thúc đẩy ngành chế biến nông sản Việt Nam phát triển. Năm 2008, khi làm nghiên cứu khoa học tại Áo, chị bắt đầu nghiên cứu công nghệ sản xuất dịch cô đặc và chất thơm từ quả vải Việt Nam bằng các quá trình màng.

Từ năm 2014-2016, chị kết hợp với kết quả một số nghiên cứu chuyên sâu về cấu trúc thiết bị trao đổi nhiệt tích hợp chuyển khối. Từ đó, công nghệ JEVA ra đời. Không chỉ dừng lại ở quả vải, hiện nay nhiều công ty, hợp tác xã đã sử dụng JEVA để tạo ra các sản phẩm như cô đặc mật dừa nước, chế biến thanh long, chuối, mía, nước dừa, sầu riêng, ổi… hay chế biến rau củ thành các sản phẩm thải độc (detox). Các sản phẩm này đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng khắt khe của thị trường quốc tế như Mỹ, Úc, Nhật Bản, châu Âu…

Bên cạnh đó, phó giáo sư Nguyễn Minh Tân còn là chủ nhiệm, thành viên chính của hàng loạt nghiên cứu khác như: “Nghiên cứu và phát triển hệ thống thiết bị khử trùng nước sử dụng năng lượng gió cho các vùng sâu, vùng xa của Việt Nam”, “Hoàn thiện quy trình công nghệ nuôi và thu nhận sinh khối tảo Spirulina bằng hệ thống photobioreactor làm thực phẩm chức năng”, “Xử lý nước thải dệt may bằng quá trình quang xúc tác ô xy hóa bằng cách sử dụng nano titan dioxide”, “Nghiên cứu quá trình siêu lọc sử dụng màng Polymer ứng dụng trong quá trình sản xuất huyết thanh và các dung dịch sạch dùng trong y tế”…

Điểm chung của các đề tài nghiên cứu là đều được ứng dụng vào cuộc sống, tạo ra các giá trị thực tiễn. Chị đã được cấp 7 bằng độc quyền sáng chế và công bố 1 sáng chế quốc tế. “Mình là kỹ sư, theo đuổi khoa học ứng dụng thì quan trọng nhất là phải đưa được các nghiên cứu ra với đời, phải có nhiều người ứng dụng được” - nữ phó giáo sư bộc bạch.

Cũng từ tư duy ấy, chị luôn dành thời gian cho thực tế. Mở tấm bản đồ đánh dấu các loại nông sản đã được nghiên cứu, chị không giấu niềm vui khi đã đặt chân tới các vùng miền dọc theo đất nước. Chị bảo, chỉ khi được thấy, được nghe, trao đổi với người sản xuất, đơn vị chế biến, nhà nghiên cứu mới nắm bắt được nhu cầu của thực tiễn.

Thủ tướng Phạm Minh Chính trao giải thưởng Kovalevskaia năm 2024 cho phó giáo sư Nguyễn Minh Tân (thứ hai từ phải sang)  và phó giáo sư Đặng Thị Mỹ Dung (thứ hai từ trái sang) - ẢNH: THU HÀ
Thủ tướng Phạm Minh Chính trao giải thưởng Kovalevskaia năm 2024 cho phó giáo sư Nguyễn Minh Tân (thứ hai từ phải sang) và phó giáo sư Đặng Thị Mỹ Dung (thứ hai từ trái sang) - Ảnh: Thu Hà

Trên cương vị là giảng viên cao cấp của Đại học Bách khoa Hà Nội, giảng viên thỉnh giảng của Đại học Tổng hợp Kỹ thuật Dresden (Đức), bên cạnh công việc nghiên cứu, phó giáo sư Nguyễn Minh Tân còn dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp “trồng người”. Chị hào hứng cho chúng tôi xem bức ảnh những sinh viên năm cuối do chị hướng dẫn tự tay lắp đặt máy cho doanh nghiệp. Chị cũng đau đáu trước hiện tượng nhiều sinh viên mất phương hướng cho tương lai, loay hoay tìm mục đích của cuộc đời.

Chị bảo: “Sinh viên hiện nay có rất nhiều công cụ trong tay, có khả năng học hỏi nhanh nhẹn. Bởi vậy vai trò của người giáo viên cũng khác xưa, tôi quan niệm phải truyền được cảm hứng, dạy các em cách tự học tập suốt đời, tạo cho các em cơ hội ứng dụng kiến thức vào thực tế”.

Cân bằng giữa nghiên cứu và gia đình

Phó giáo sư, tiến sĩ Đặng Thị Mỹ Dung - Phó viện trưởng Viện Công nghệ Nano, Đại học Quốc gia TPHCM - chỉ nhận mình là một người làm khoa học bình thường và may mắn. Là một trong số ít nữ sinh theo học ngành vật lý, chị Đặng Thị Mỹ Dung thừa nhận, đây là lĩnh vực khá khô khan và “khó nhằn” nhưng càng đi sâu thì càng thấy thú vị.

Vì sự thú vị ấy mà chị đã “dành cả thanh xuân” để theo đuổi khi tiếp tục học lên thạc sĩ rồi tiến sĩ. Từ năm 2009, chị bắt đầu giảng dạy và làm chủ nhiệm các đề tài khoa học từ cấp cơ sở đến cấp nhà nước mang tính chất liên ngành từ vật lý, khoa học vật liệu, công nghệ nano, sinh học.

Phó giáo sư, tiến sĩ Đặng Thị Mỹ Dung (bìa trái) đang hướng dẫn các nghiên cứu viên - ẢNH: N.L.
Phó giáo sư, tiến sĩ Đặng Thị Mỹ Dung (bìa trái) đang hướng dẫn các nghiên cứu viên - Ảnh: N.L.

Cách đây hơn 15 năm, khi công nghệ in phun còn khá mới mẻ ở Việt Nam, chị Đặng Thị Mỹ Dung là trưởng nhóm tiên phong phát triển nhóm nghiên cứu về công nghệ in phun tại Viện Công nghệ Nano. Riêng với lĩnh vực này chị đã gặt hái nhiều thành công khi có nhiều bài nghiên cứu được công bố quốc tế, được nhận bằng độc quyền sáng chế và sản phẩm ứng dụng thực tiễn.

“Hướng nghiên cứu chính của tôi là phát triển công nghệ in phun và phát triển các sản phẩm khoa học công nghệ sử dụng công nghệ in phun. Trong đó, tập trung nghiên cứu chế tạo các loại mực in phun nano và ứng dụng chế tạo các sản phẩm khoa học công nghệ có tính ứng dụng thực tiễn cao, đáp ứng nhu cầu xã hội như: mực in phun nano bạc, cảm biến RFID, cảm biến sinh học và cảm biến môi trường ứng dụng tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long” - chị chia sẻ.

Trung thành với lĩnh vực công nghệ in phun, năm 2009, chị là thư ký đề tài cấp bộ (NAFOSTED) “Nghiên cứu các thông số cơ bản của kỹ thuật in phun dùng cho công nghệ in các cấu trúc và màng mỏng dẫn điện”. Năm 2010, 2011, chị chủ nhiệm 1 đề tài cấp nhà nước thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, 1 đề tài cấp Đại học Quốc gia TPHCM về hướng công nghệ in phun. Sau khi thành công bước đầu theo hướng phát triển công nghệ in phun, chị tiếp tục là chủ nhiệm 2 đề tài cấp nhà nước để phát triển cho đến nay.

Miệt mài nghiên cứu, sau 15 năm, nữ phó giáo sư đã công bố 60 bài báo khoa học đăng trên các tạp chí quốc tế uy tín và là tác giả chính của 17 bài. Chị cũng tham gia thực hiện và hoàn thành 3 dự án quốc tế, 3 đề tài cấp quốc gia và nhiều đề tài, dự án khác.

Cho đến nay, chị được cấp 3 bằng độc quyền sáng chế, 2 bằng độc quyền giải pháp hữu ích và 5 bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp. Trong số hàng loạt đề tài nghiên cứu, chị đã chủ trì và tham gia phát triển 4 sản phẩm khoa học công nghệ được đưa vào ứng dụng thực tiễn.

Nói về việc nữ giới làm nghiên cứu khoa học, chị Dung cho rằng, văn hóa Việt Nam đề cao người phụ nữ là người “giữ lửa” hạnh phúc gia đình, nên việc cân bằng giữa công việc nghiên cứu - vốn đòi hỏi thời gian dài, sự tập trung cao độ - và trách nhiệm chăm sóc gia đình là điều không dễ. Từ thập niên 90 của thế kỷ trước, cụm từ thi đua “giỏi việc nước, đảm việc nhà” đã được đề xướng đến tận hôm nay.

“Nhiều người bảo phụ nữ làm được như vậy là “siêu nhân”, nhưng tôi cho rằng làm “nghiên cứu khoa học” hay “giữ lửa gia đình” chỉ là một trong những kỹ năng của người phụ nữ hiện nay. May mắn lớn nhất của tôi là được ông xã và gia đình ủng hộ, hậu thuẫn. Giữa công việc và gia đình cái nào cũng quan trọng nên tôi cố gắng dung hòa mọi thứ. Nghiên cứu khoa học không chỉ là công việc mà còn là đam mê, mang tới niềm vui cho cuộc sống và lan tỏa được nhiều giá trị cho xã hội” - nhà khoa học nữ chia sẻ.

Minh Quang - Nguyễn Loan

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI