Má Hai ngồi ở mũi ghe, nhìn hút qua bên kia sông, nơi có mấy cụm lục bình hiếm hoi sót lại sau mùa nước ròng. Vài bông tím lơ thơ, nhạt sắc dưới nắng chiều vàng vọt hắt xuống mặt nước. Má cứ ngồi như thế. Lặng im như chiếc bóng.
|
Ảnh minh họa |
Tôi lui cui thổi lửa ở cái lò than tổ ong. Than ẩm, khói mù mịt. Gió bốn phía cứ thổi lung tung, không biết xoay xở thế nào. Cặp mắt cay xè, khó chịu.
Má Hai quay lại, chắc má nghe tiếng thổi phù phù liên tục của tôi, bảo:
- Huyền cứ để đấy, lát rồi than cũng bén, ra đây tí đã!
Tôi với lấy chiếc khăn vắt ở cây sào lau mồ hôi rồi chui ra, ngồi bên má Hai, chân thõng xuống, bàn chân chạm nước, mát lạnh. Liếc nhìn gương mặt má Hai như đón từng ngọn gió chiều hào phóng thổi tới, tôi thấy đẹp lạ lùng. Má Hai trẻ so với tuổi, chỉ hơn tôi chừng mười tuổi là cùng.
Má Hai về với cha con tôi từ dịp tết năm nảo năm nao, khi tôi còn là cô bé thắt bím, ngực phẳng lỳ, chưa mặc áo lót, mỗi buổi trưa còn lén cha nhảy ùm xuống nước, lặn hụp như con rái cá. “Quê má xa lắm”, má Hai chỉ nói thế khi tôi hỏi.
Tôi không gọi má Hai là dì như mọi người thường gọi người vợ sau của cha mình. Với tôi, tiếng dì không hay, không tình cảm. Bữa nằm bên má Hai, tôi nói vậy, má vuốt tóc tôi rồi siết chặt vào lòng, ấm áp.
Má tôi bỏ đi. Tôi chỉ biết thế khi cha say và hét vào mặt con gái. Tôi thấy hụt hẫng và mất mát. Vì sao má bỏ đi? Cha nốc cạn rượu, dằn mạnh cái ly rồi trừng trừng cặp mắt đỏ hoe, vằn những tia máu nhìn tôi như con mèo ướt, thu lu trong góc.
Cha không nói thêm gì nữa, cứ nốc ực từng ly đến say mèm rồi khóc. Tiếng khóc của cha không thoát ra ngoài mà nghẹn tức trong cổ. Tôi sợ lắm, càng thu mình thật nhỏ lại. Đêm ấy, cha không ngủ, ngồi đốt thuốc nhìn những giề lục bình trôi lạc, lênh đênh.
|
Ảnh minh họa |
Tôi cũng nói với má Hai như thế. Thực ra, tôi không thể hình dung ra má ruột tôi là người như thế nào? Má bỏ đi từ bao giờ? Trong ký ức nhỏ dại của tôi chỉ có hình ảnh cha mà thôi. Cha pha sữa bằng cái ca nhựa hay múc nước uống. Cha vào chợ xin mấy miếng vải màu con con, kết lại treo ở nóc khoang. Cha vụng về thắt hai bím tóc loe hoe cháy nắng của tôi. Cha cõng tôi qua vũng bùn đầy cỏ xước để vào cồn hái bông điên điển…
Má Hai ngậm ngùi, cầm tay tôi bóp nhẹ. Má Hai bảo sẽ yêu thương, chăm sóc cho tôi khôn lớn. Tôi tin lời bởi má sưởi ấm đứa con riêng của chồng bằng tình cảm thiêng liêng, ấm áp chứ không phải sự vờ vịt của mối quan hệ mẹ ghẻ con chồng như dân gian từng nhắc.
Má Hai mất gia đình trong một trận bão. Chiếc ghe bị sóng dập, đứt dây neo, chìm ở cửa sông. Đứa con gái nhỏ chừng hai tuổi bị dòng sông đục ngầu, nổi sóng nuốt chửng. Chồng của má đang bệnh nên không thể chống chọi được với dòng nước hung hãn đang rướn mình về biển.
Má may mắn vớ được khúc cây mục, lênh đênh trên dòng nước gần một ngày thì được người ta vớt lên. Má Hai kể mà khóc nấc. Tôi không hỏi nữa, ôm lấy má hít lấy hít để vị mồ hôi mặn mòi quen thuộc sau buổi chợ tan.
|
Ảnh minh họa |
Những cụm lục bình dần lan kín mặt nước ở khúc ngoặt của dòng sông. Hoa lục bình bắt đầu khoe sắc. Má Hai bị cảm nên không lên chợ mà ngồi bó gối nhìn mông lung. Cha tôi đứng dạng chân ở đầu mũi ghe hút thuốc. Trông cha hiền lành, gần gũi. Ông quay lại, nói vọng vào khoang:
- Coi bộ khỏe được, má Hai dắt con Huyền lên chợ sắm sửa cho tươm tất, đặng mà ăn tết!
Má Hai gật đầu, nhìn tôi. Đáp lại bằng nụ cười nhẹ, tôi nhìn cha:
- Cha cần gì thì nói, má Hai mua luôn?
- Không cần lắm đâu, mua cây ba số là được rồi!
Cha tôi vẫn hay hút thuốc, mà là ba số, loại thuốc ngày trước má từ xóm chợ trốn ra gốc bần ở bến sông chờ cha chạy ghe qua, nói vài ba câu rồi đưa cho bao thuốc và một tờ thư. Cha bảo, riết rồi không quen hút thứ khác. Nhắc tới người đàn bà, mà tôi lờ mờ nghĩ là má ruột tôi, cha thường tư lự.
Mỗi chiều, nhìn bóng cha đổ dài trên mặt nước, khói bay vờn quanh mái tóc lơ thơ bạc, tôi cảm nhận dường như mọi điều xảy ra xung quanh không hề vang động đến tâm hồn cha. Má Hai biết tính cha nên lắm lúc cũng e dè ngồi cạnh, mong được chia sẻ nhưng đều vô hiệu.
Cha nhìn má Hai bằng ánh mắt dịu dàng, nồng ấm, nhẹ nhàng nói với giọng điệu thân tình, ngọt ngào khác hẳn với ngôn ngữ chao chát, cộc cằn thường thấy khi cha bon chen mua bán.
Tôi thường ngủ với má Hai, trong khoang. Còn cha ngủ ở mũi ghe, che sương bằng tấm ni-lông được căng chằng ở bốn đầu. Mưa thì cha vào khoang, nằm nép ở góc, co lại như một con tôm, khắc khổ.
Tôi quyết định nói với cha là mình muốn đi học nghề, nghề gì cũng được, miễn sao được bước ra khỏi chiếc ghe xuôi ngược con sông này. Cha nhìn tôi rồi nhìn má Hai. Má im lặng vì đã biết ý định này của tôi, chỉ chờ cha lên tiếng.
Rời khỏi chiếc ghe đó là điều tôi đắn đo ghê gớm, nhưng tôi biết mình không còn con nít, không thể quẩn quanh mãi một chỗ, tầm mắt không vượt ra ngoài mấy khóm lục bình. Thêm nữa, tôi muốn dành không gian của chiếc ghe chở hàng chật chội cho cha và má Hai.
- Con muốn học lấy cái nghề, đặng nuôi sống bản thân.
Tôi phân trần. Cha ném mẩu tàn thuốc xuống nước rồi tiến lại gần tôi. Cha kéo tay tôi ngồi xuống. Cử chỉ này, đối với tôi rất lạ, cha chưa bao giờ ân cần với con gái như thế cả. Cha nhẹ nhàng, không nhìn tôi:
- Con đã tính kỹ chưa, lên đấy liệu sống được không?
Tôi không biết mình có thích nghi được không nhưng cũng phải đi. Tôi từng chứng kiến má Hai xoay trở liên tục trong những đêm trời trở gió. Cơn bấc ngoài kia xao xác trong khóm dừa nước, lập lòe ánh lân tinh và tiếng bìm bịp từng hồi thê thiết.
Cha tôi cũng không ngủ được thì phải. Tiếng ho khan dội vào lòng tôi bao nỗi niềm. Sáng ra, đầu tóc má Hai rối mù, vạt áo trễ tràng, xộc xệch. Má tránh ánh nhìn của tôi bằng cách đưa tay vớt cánh lục bình rồi khe khẽ hát “Về phương Nam ngắm sông ngậm ngùi, thương những đời như lục bình trôi”.
Giọng má Hai buồn trĩu, vô tình vang đến mấy chiếc ghe neo phía trong bờ, vướng phải ánh mắt của mấy kẻ thương hồ. Họ ngẩng mặt lên, lắc đầu. Tôi nhẩm lại lời bài hát, nghe xốn xang lòng.
- Huyền đi, tôi cũng đi!
Tôi bất ngờ nhìn sững má Hai. Cha không nói gì, chui vào khoang để qua mũi ghe bên kia. Cha nhìn về phía có những đám mây màu mỡ gà loang khắp bầu trời nơi những tia nắng chiều rọi chiếu.
Má Hai cũng muốn rời xa chiếc ghe thương hồ này sao? Hay má có điều gì ẩn ức giấu tôi? Tôi muốn má Hai và cha sớm tối có nhau, gần gũi, yêu thương. Mỗi sáng ghe cập bến, cha vác hàng đi trước, má Hai xách túi theo sau. Chập trưa, ghé hàng cơm ăn vội rồi lại khuân hàng xuống ghe, cởi dây neo, nổ máy.
Những tối trăng thanh gió mát, má Hai và cha ngồi ở mui ghe nói chuyện, những câu chuyện không đầu đuôi, rời rạc, chắp vá sau một ngày rong ruổi. Tôi muốn hai người có cử chỉ thân mật, suốt thời gian má Hai về sống với cha con tôi, chưa bao giờ cha nói một câu tình tứ với má. Khi cần gì, cha cứ gọi trống không dù giọng luôn ân cần, điềm đạm. Có lần tôi thắc mắc, má Hai chỉ cười, vừa thắt bím tóc cho tôi vừa bảo:
- Cha Huyền là một người đàn ông tốt.
- Má Hai thương cha Huyền nhiều không? - Tôi ghé sát mắt vào mặt má Hai, giọng tinh nghịch. Má không trả lời, chỉ áp cái mặt xương xẩu vào tóc tôi, lảng tránh:
- Tóc Huyền thơm nắng quá đi!
Tôi cười thành tiếng vì cảm giác nhồn nhột, thế là quên ngay, không cần biết câu trả lời của má Hai.
Tôi trở về nhằm mùa con nước nhảy bờ. Khắp nơi lục bình giăng kín, hoa nở biêng biếc một màu đầy ám ảnh. Dưới tán cây bần, chiếc ghe quen thuộc không còn nữa. Có lẽ cha và má Hai đã ngược sông thu mua nông sản để bán dịp tết. Nhìn dòng nước miên man, những giề lục bình nối nhau trôi mải miết, lòng tôi chợt xốn xang.
Người dân xóm chợ, mỗi lần con nước lên, nhìn từng giề lục bình tím biếc thường hay nhắc về một người đàn ông vì nghèo mà bị người yêu phụ bạc, đành chấp nhận cuộc đời thương hồ trôi nổi. Người đàn ông ấy đã cưu mang đứa trẻ bị bỏ rơi và người đàn bà mất chồng con trong một trận lũ.
Trông họ như một gia đình, nhưng thực ra ba con người ấy chỉ là những cánh lục bình lạc loài trên dòng sông số phận, vô tình gặp nhau tạo thành giề, thành cụm. Cứ thế họ dắt díu nhau trên suốt hành trình cuộc đời đầy sóng gió.
Sơn Trần